Văn Cao
- Chi tiết
-
Đặng Tiến
-
Lượt xem: 5305
Đặng Tiến
Từ Suối Mơ đến Bến Xuân
Từ những tình khúc đầu mùa như Thu cô liêu, Buồn tàn thu (1939), Cung đàn xưa, Bến xuân (1942), Suối mơ (1943), Văn Cao đã ghi lại những thành công trong thời kỳ phôi thai của nhạc mới, mà bây giờ vẫn còn người hát; và nghe lại, ta vẫn thấy hay, trong khi một số ca khúc đồng thời của Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước... đã trở thành lạc lõng. Giải thích hiện tượng này, Phạm Duy đã có một loạt bài hay, và anh là người có nhiều thẩm quyền để phê phán: anh sống, sáng tác và ca diễn vào thời đó, anh nắm vững lịch sử tân nhạc và tâm lý quần chúng; về nhạc thuật, Phạm Duy là vua. Vậy chúng ta nghe Phạm Duy:
"Phải đợi cho tới khi tân nhạc ra đời vào những năm cuối 30 và đầu 40 thì chúng ta mới có được một loại nhạc tình lãng mạn do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Vân Chung, Dzoãn Mẫn, ... tung ra (...). Tuy nhiên loại nhạc tình lãng mạn đó chỉ có thể gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được phát xuất ra từ một con người tài hoa bậc nhất của thế giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao".
[Tạp chí Văn Học số 15, 1987, đăng lại trên Hợp Lưu số 8, 1992]
Xem tiếp...
- Chi tiết
-
Đặng Tiến
-
Lượt xem: 4887
Đặng Tiến
Thiên Thai và Trương Chi của Văn Cao là hai ca khúc nổi tiếng từ nửa thế kỷ nay, cấu trúc trên hai truyền thuyết được lưu hành lâu đời. Thiên Thai là chuyện Lưu Nguyễn lạc vào cõi bồng lai, Trương Chi kể lại niềm đau đớn của chàng ngư dân có tiếng hát hay, tuyệt vọng vì tình: ai cũng hiểu như thế và hiểu đúng. Gần đây Phạm Duy có phát triển thêm ý nghĩa của hai bài hát, trong một loạt bài rất hay đăng trên Văn Học (California), số 16&17 (tháng 10&11.1987) [đăng lại trên Hợp Lưu số 8].(1)
Nay chúng tôi muốn đưa một lối nhìn khác về hai nhạc phẩm, không phải để đi tìm cái độc đáo, lập dị, mà để đưa Thiên Thai và Trương Chi vào toàn bộ sự nghiệp thơ-nhạc-hoạ của Văn Cao, như một đồng bộ thống nhất: hai bài hát đó, chúng tôi xem như là tuyên ngôn nghệ thuật của Văn Cao – những nguyên tắc thẩm mỹ đưa ra từ thuở hai mươi, sẽ chung thuỷ với Văn Cao đến tuổi xế chiều.
Xem tiếp...
- Chi tiết
-
Trịnh Công Sơn
-
Lượt xem: 4745
Trịnh Công Sơn
1998
Chỉ là chuyến đi bình thường nhưng đã thành một sự kiện. Nhạc sĩ Văn Cao vào thăm thành phố Hồ Chí Minh và cái thành phố luôn náo nhiệt làm ăn này dường như đang hằng mong đợi ông. Ba buổi biểu diễn nhạc Văn Cao đã được tổ chức cấp tốc ở nhà Văn hóa Thanh niên, đông hết sức chứa, bất kể những cơn mưa tháng bảy...
Nhạc sĩ Văn Cao trở lại Sài Gòn lần này, với tôi, có điều gì đó không giống những năm trước. Sự có mặt của anh bên cạnh ly rượu làm tôi nhớ đến những người đã vắng mặt. Những anh Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng. Những con người tài hoa của nghệ thuật cũng như anh Văn mà có thời tôi đã cùng chia những ly rượu sáng chiều ở Hà Nội cũng như ở Sài Gòn. Cái có, không ở đời là chuyện thường tình của cuộc sống, nhưng cứ mỗi lúc có một cái gì gợi nhớ là không thể không ngậm ngùi. Anh Văn Cao là sự gợi nhớ đó.
Xem tiếp...
- Chi tiết
-
Phạm Duy
-
Lượt xem: 4448
Phạm Duy
9.10.2007
(NCTG) Đánh giá về Văn Cao, có lẽ ít ai có thẩm quyền như Phạm Duy, người đã dành sự trọng thị ở mức độ cao nhất mỗi khi có dịp nhắc đến bạn cũ của mình mà theo ông, là "người viết Tình ca số một", "người đẻ ra thể loại Hùng ca và Trường ca Việt Nam".
Hai thập niên trước, trong “Lược sử Tân nhạc Việt Nam”, Phạm Duy đã dành những dòng ưu ái nhất để nói về Văn Cao: “Nói tới nhạc tình thì... Văn Cao là nhất! […] Văn Cao đã đưa nhạc tình tiền chiến lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm”.
Mười năm trước, trong cuộc trò chuyện với các bạn trẻ Đông Âu, Phạm Duy lại khẳng định: “Nếu so sánh Văn Cao và tôi thì phải công nhận là anh Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều lắm. Về nhạc. Về họa. Về thơ. Đủ mọi phương diện”.
Xem tiếp...
- Chi tiết
-
Xuân Diệu
-
Lượt xem: 5527
Xuân Diệu
7/1958
Mặt trận tư tưởng, tinh thần, mặt trận văn hoá văn nghệ quả thật là xung yếu, tinh tế! Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là "bổ". Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. Cũng là một thứ văn thơ "giật gân", giật gân đến một độ rất nguy hiểm; thà cứ như cái thùng sắt tây Lê Đạt, thà cứ ngổ ngáo cao bồi như Trần Dần: dễ thấy; đằng này cứ như triết gia ban phát đạo lý nghìn đời; người nào đã biết thế nào là chân lý chân chính, đọc một số thơ và những bài văn, tựa của Văn Cao, có thể tức tối đến đau óc, bởi cái giả dối ở đây nó chằng chịt thật là khó gỡ, nó đã thành máu thịt của Văn Cao, nó nói cứ như thánh, và còn biết nhoẻn miệng cười duyên nữa!
Xem tiếp...
- Chi tiết
-
Nhật Trung
-
Lượt xem: 4614
Nhật Trung
3.1.2010
Nói tới Văn Cao, ngoài những chuyện tài (năng) và tai (nạn) của ông, người ta còn hay nói chuyện Văn Cao uống rượu. Nhưng theo tôi, nói "Văn Cao uống rượu" có vẻ chưa được ổn, mà nên nói đơn giản "Văn Cao rượu".
Vì, rất nhiều lần được ngắm Văn Cao uống rượu, tôi rất ít khi thấy ông uống, mà nhiều hơn, là thấy ông ngồi thiền trước chén rượu. Lặng lẽ. Người ta nói những người uống rượu như thế là những người "mượn rượu", không phải chuyện mượn rượu giải sầu, mà là mượn chuyện uống rượu, mượn cái không khí rượu - dù là không khí ngoài quán
Xem tiếp...
- Chi tiết
-
Nam Dao
-
Lượt xem: 3743
Nam Dao
Tưởng nhớ Văn Cao Bài này đăng trên báo Ðất Việt năm 1986, khi anh đang nằm bệnh, đã tưởng khó qua. Anh lành bệnh, và in tập thơ Lá (nxb Tác phẩm mới, 1988), viết "Voi đã đẻ, gửi đứa con để anh nuôi". Rồi năm 95, anh cũng đã về với cát bụi. Và cát bụi mệt nhoài, trong hoàn cảnh những người làm văn hóa của thế hệ anh.
1.
Ra khỏi nhà anh Lê Ðạt, nắng Hà Nội hầm hập. Nắng đến rát mắt, nắng sáng lóa, nắng lên đỉnh ngọn tre ở nhà quê. Nắng đổ xuống làm ướt nhem nhép nhựa đường lòng phố thành thị. Cả Hà Nội ngủ trưa thì phải. Chỉ còn vài kẻ gò người đạp xe đạp. Mồ hôi ứa ra ướt đẫm nách áo, lưng áo. Dăm ba đưa trẻ ngơ ngác bước ven những căn nhà cũ, bẩn, nhưng vẫn còn chút bóng mát của những cái liếp tre, liếp nứa treo hờ hững. Hơi nóng từ mặt đường nứt nẻ, lỗ chỗ, từ những bức tường gạch xám xịt, loang lổ cứ bốc đến độ khó hít thở một cách tự nhiên.
Xem tiếp...