Phạm Duy
9.10.2007

Văn Cao & Phạm Duy(NCTG) Đánh giá về Văn Cao, có lẽ ít ai có thẩm quyền như Phạm Duy, người đã dành sự trọng thị ở mức độ cao nhất mỗi khi có dịp nhắc đến bạn cũ của mình mà theo ông, là "người viết Tình ca số một", "người đẻ ra thể loại Hùng ca và Trường ca Việt Nam".

Hai thập niên trước, trong “Lược sử Tân nhạc Việt Nam”, Phạm Duy đã dành những dòng ưu ái nhất để nói về Văn Cao: “Nói tới nhạc tình thì... Văn Cao là nhất! […] Văn Cao đã đưa nhạc tình tiền chiến lên tới một cao độ vượt khỏi những khuôn sáo cũ mèm”.

Mười năm trước, trong cuộc trò chuyện với các bạn trẻ Đông Âu, Phạm Duy lại khẳng định: “Nếu so sánh Văn Cao và tôi thì phải công nhận là anh Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều lắm. Về nhạc. Về họa. Về thơ. Đủ mọi phương diện”.

Tuy nhiên, những dòng ấy, những lời lẽ ấy, được Phạm Duy viết và nói khi còn ở mảnh đất tạm dung, chưa biết ngày nào mới có dịp về thăm quê, nói chi đến hồi hương? Không phải ngẫu nhiên, những dòng viết của Phạm Duy về Văn Cao cũng đượm nỗi buồn “quê hương khuất bóng hoàng hôn”, nhất là khi ông đặt câu hỏi: “Ai là người sẽ nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao?”

Với Phạm Duy, con người hành động, hỏi cũng là trả lời. Ngay khi mới hồi hương, ông đã có bài viết về Văn Cao, đã có mặt và phát biểu trong đêm nhạc Văn Cao do Ánh Tuyết tổ chức nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của “chàng Văn”. Và gần đây nhất, là chuỗi các đêm nhạc “Văn Cao trong tôi” được tổ chức theo cách “rất Phạm Duy”, do chính ông làm MC: vinh danh người bạn thân thiết trong dịp sinh nhật của mình!

Mừng thượng thọ người nhạc sĩ lão thành Phạm Duy, và cũng là để thắp một nén hương trước hương hồn Văn Cao, người “sang trọng như một ông hoàng” trong những tác phẩm âm nhạc “của thần tiên bay bổng” mà ông để lại (chữ dùng của Trịnh Công Sơn), NCTG xin trân trọng giới thiệu một phần nội dung của ba đêm Nhạc thoại “Văn Cao trong tôi” của Phạm Duy.

Chân thành cám ơn nhạc sĩ Phạm Duy đã chia sẻ với NCTG tư liệu âm nhạc quý báu này! (H.Linh)


1. SỰ ĐA DẠNG CỦA VĂN CAO

Trong ba đêm VĂN CAO TRONG TÔI tại phòng trà TÌNH CA, tôi nói ra được vài điều mà tôi nghĩ là sẽ bổ ích cho những người yêu nhạc và nhất là yêu nhạc Văn Cao.

Văn Cao Phạm Duy

Trước hết, tôi nói tới sự đa dạng trong nhạc tình của VC trong thời kỳ mới thành lập của Tân Nhạc này. Lúc đó, những chàng thanh niên mới tập tễnh soạn ca khúc Việt Nam (như Lê Thương, Đặng Thế Phong, Hoàng Quý, Văn Cao…) thường dùng một âm giai “mineure” hơi giống như âm giai của điệu Sa Mạc (re fa sol la do re). Những bài như Buồn Tàn Thu (i), Bản Đàn Xuân, Cô Láng Giềng, Con Thuyền Không Bến đều có chung một hơi hướng Việt Nam và một phong cách buồn bã như nhau.

Duy chỉ có Văn Cao là muốn thay đổi phong cách, cho nên sau Buồn Tàn Thu thì ông buông cái “re mineure” ra và dùng những âm giai “majeure” để diễn tả cái buồn (lúc đó chưa có nhạc vui trong Tân Nhạc như hướng đạo ca hay thanh niên lịch sử ca. Ngay Nguyễn Xuân Khoát và Đỗ Nhuận cũng còn bám vào âm giai “re mineure” để viết Hồn Xuân, Nhớ Chiến Khu hay Côn Đảo.

Không còn là ngũ cung “re mineure” nữa, và dù tác giả tuyên bố trong một cuốn video, đây là ca khúc của kẻ thất tình, nhạc điệu trong Thu Cô Liêu, Cung Đàn Xưa của Văn Cao là nhạc chủ thể Tây Phương (musique tonale) với những áp-âm (notes sensibles) làm cho nét nhạc có nhiều cảm tính. Nhịp điệu là thể valse đầy lưu luyến và cũng đầy luyến tiếc.

Sau đó, trong hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân là Suối Mơ Bến Xuân (ii), bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy một chút hạnh phúc. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu của chúng ta. Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa xa và nghe tiếng chim ca như lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng mình…

Rồi tới khi vươn tới những tác phẩm lớn như Thiên Thai Trương Chi thì “ngữ nhạc” của Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của cuộc tình tiên cảnh cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của tình buồn với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở.

Trong những đêm hát này, tôi còn được hân hạnh mời mọi người nghe hai bài hướng đạo ca của Văn Cao do các em thiếu nhi trong ban Văn Nghệ của quận Phú Nhuận hát. (Tôi thấy ở trên NET, vài websites đăng tên bài Anh Em Khá Cầm Tay sau khi đọc Hồi Ký Phạm Duy, nhưng không chua tên tôi là người sưu tập và chỉnh đốn. Họ rất thiếu lương thiện…)

Anh Em Khá Cầm Tay
Văn Cao
(Phạm Duy sưu tập và chỉnh đốn)

Anh em khá cầm tay
Mau đến cùng nhau hát nhé
Nơi đây chúng mình ca
Trong gió chiều thật êm êm
Bao nhiêu gió về đây
Chim chóc về đây hót nhé
A vui sướng làm sao
Ta ngó trời thật xanh êm
Mà ca hát cười nô
Không biết chi là u buồn
Ðời trần gian chắc là thắm tươi
Trời xanh ngắt tầng cao
Đang ngước nhìn chúng ta cười
Này này sao các người vui thế?
Này này sao các người vui thế?
Này này sao các người vui thế?
Này này sao… các… người… vui… thế?

Gió Núi
Văn Cao
(Phạm Duy sưu tập và chỉnh đốn)

Gió núi qua mái lều vi vu
Vừng trăng xế lu
Phía cách xa núi mờ ánh trăng
Lời ca hát rằng:
Cùng ngồi lại đây
Ta chờ hơi gió
Là tiếng hát phất phơ từ đâu?
Từ đồi cao tới nơi rừng sâu
Rừng cây với núi vấn vương máu hồng
Ngàn đời về xưa
Ngàn đời về xưa
Muôn quân thương tiếc
Muôn quân thương tiếc
Bao nhiêu thây chết nơi đây
Ngàn đời về sau
Ngàn đời về sau
Ầm vang gió núi
Ầm vang gió núi
Nấu nung máu hờn!


2. CA TỪ TRONG NHỮNG BÀI ĐẦU TIÊN CỦA VĂN CAO

Về ca từ, vào lúc thành lập của Tân Nhạc, đa số các nhạc sĩ đều làm lời ca với thơ năm chữ… có thể họ đã bị ảnh hưởng thi sĩ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng Thu:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?

Cũng có thể họ bị ảnh hưởng của bài thơ này trong sách giáo khoa Lớp Một:

Cứ mỗi độ thu sang
Hoa cúc lại nở vàng
Ngoài vườn hương thơm ngát
Ong bướm bay rộn rang
Em cắp sách tới trường
Nắng tươi rải trên đường
Trời xanh thay áo mới
Đẹp sao lúc thu sang

Văn Cao đã dùng thơ 5 chữ trong một bài hát hướng đạo như Anh Em Khá Cầm Tay:

Anh em khá cầm tay
Mau đến cùng nhau hát
Nơi đây chúng mình ca
Trong gió chiều thật êm
Bao nhiêu gió về đây
Chim chóc về đây hót
A vui sướng làm sao
Ta ngó trời xanh êm

Và sau đó, trong kháng chiến, anh có bài Ngày Mùa:

Ngày mùa vui thôn trang
Lúa không lo giặc về
Khi mùa vàng thôn quê
Ngày mùa vui thôn xóm,
Đầy đồng giáo với gươm
Súng tì tay anh đứng,
Em ngừng liềm trông sang.

Quê Em của Nguyễn Đức Toàn cũng là thơ năm chữ:

Quê em miền trung du
Đồng suôi lúa xanh rờn.
Giặc tràn lên thôn xóm…

Sau này là những bài thơ hay bài hát khác:

Lên xe tiễn em đi
Chưa bao giờ buồn thế
Trời mùa Đông Paris
Suốt đời làm chia ly
(Cung Trầm Tưởng (1))

Đưa em về dưới mưa
Nói năng chi cũng thừa
Như u tình đã qua
Thấm linh hồn ma soeur
(Nguyễn Tất Nhiên (2))

Chỉ chừng một năm thôi
Là quên lời trăn trối
Ai nuối thương tình đôi
Chỉ chừng một năm thôi
(Phạm Duy (3))

Thế hệ nhạc sĩ đầu tiên của Tân Nhạc là chúng tôi, nghĩa là Lê Thương, Đặng Thế Phong, Văn Cao, Phạm Duy, v.v… cũng như các thi nhân tiền chiến, vào lúc sắp thoát ra khỏi hay vừa thoát ra khỏi ách thực dân Pháp, nhờ có cuộc Cách Mạng mùa Thu 1945, thì trong sáng tác, chúng tôi đều muốn kêu gọi hay lắng nghe tiếng quê hương đất nước, mùa màng cây cỏ, nghe tiếng mẹ, gọi em, gọi đồng bào ruột thịt, nghe Trời, gọi Phật…

Sau khi Lưu Trọng Lư lắng nghe mùa Thu (Em không nghe mùa Thu, dưới trăng mờ thổn thức), Lê Thương gọi mùa Thu (Thu Trên Đảo Kinh Châu), Thẩm Oánh gọi thuyền (Thuyền ơi hãy ghé vào bờ), Văn Cao gọi suối (Suối ơi, bên rừng Thu vắng (4)), tôi gọi chiều (Chiều ơi, lúc chiều về rợp bóng nương khoai (5))… Mấy chục năm sau, Trịnh Công Sơn vẫn còn gọi nắng (Gọi nắng trên vai em gầy (6)), còn thi sĩ Phạm Thiên Thư thì vẫn nheo nhéo gọi người tình Ẩn Lan (Gọi Em Là Đóa Hoa Sầu). Và dường như tất cả chúng tôi đều cất cao tiếng gọi Mẹ (Mẹ Việt Nam ơi, chúng con đã về giữ thơm quê Mẹ (7))…

Lúc tiến qua những tình khúc dài hơn Thu Cô Liêu, Cung Đàn Xưa như Suối Mơ, Bến Xuân thì ca từ trong nhạc Văn Cao lại khác đi, có khi nặng về thơ 7 chữ, phần nhiều là thơ tự do nhưng đi theo với những câu nhạc. Trong hai bài này, nhạc tính Văn Cao có tính chất mô tả nhiều hơn.

Trong thực tế, cho tới lúc này, chưa có một nhạc sĩ nào có thể mô tả cái đẹp của con suối trong rừng Thu hay mô tả người đẹp trong cảnh bến sông vào lúc Xuân sang. Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang. Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không dìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy một chút hạnh phúc. Con suối trong rừng Thu buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu của chúng ta:

Suối ơi ôi miền yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến
Đàn ai nắn cung lưu luyến
Suối hát theo đôi chim uyên…

Ðứng trên bến Xuân để nhìn những cánh buồm xa xa và nghe tiếng chim ca như lưu luyến cuộc tình vừa qua của chúng mình:

Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...


3. BA TUYỆT PHẨM CỦA VĂN CAO

Tôi muốn dành phần cuối của chương trình này để nói về ba tuyệt phẩm của Văn Cao: Thiên Thai, Trương ChiTrường Ca Sông Lô.

Hãy nói về nhạc tính (caractere musicale) của ba tác phẩm này.

Tuy viết ra một bản hát vừa có tính chất trường ca, vừa có tính chất nhạc cảnh – nghĩa là đã vượt qua hình thức đoản khúc… Thiên Thai có tới 94 khuông nhạc (measures) chan chứa những giai điệu thần tiên và những lời ca thần diệu… nhưng Văn Cao không tả thực trong bài Thiên Thai này! Thiên Thai là một trường ca ấn tượng, impressionist, tạo cảm xúc cho người nghe nhiều hơn là mô tả một câu truyện. Tất cả những hình ảnh chính của câu truyện cổ như hai chàng Lưu Nguyễn, bầy thiên tiên hoặc những cảnh vật như suối hoa đào, chiếc thuyền lan, nước ngọc tuyền, đều được mô tả một cách rất mơ hồ… giống như trong một giấc mộng vậy. Ta biết là có con thuyền chở Lưu Nguyễn tới cõi Thiên Thai, ta biết là có bầy thiên tiên múa hát dâng trái đào thơm… nhưng ta không thấy được họ.

Khi cùng người yêu xây được ngôi nhà bằng cỏ bên suối mơ hay trước bến xuân với hai tình khúc trước thì Văn Cao có thể mời đón chúng bước vào căn nhà bên chiếc cầu soi nước để ngồi nhìn đàn nai đùa trên đống lá vàng tươi hay đứng trước bến sông để nhớ tiếc những ngày tha hương…

Nhưng trong Thiên Thai, cõi mơ của Văn Cao, chúng ta không thể nào bước vào cái vườn cấm này được. Ðây là cõi riêng của Người Sông Ngự, cõi riêng của nhạc sĩ Văn Cao.

Thái Hằng và Duy Cường thay mặt Phạm Duy tới thăm Văn Cao

Trương Chi cũng không hiện thực trong tính cách, không mô tả (descriptive), chỉ gây ấn tượng cho chúng ta về tiếng hát hay của anh lái đò, về hạnh phúc của Mỵ Nương mỗi lần nghe tiếng hát…

Ông chỉ dùng Trương Chi để tỏ thái độ của chàng Trương sau khi thất tình, trước khi chết cũng như sau khi chết: Ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta...

Tâm hồn tôi đẹp - vì tôi hát hay - nhưng tôi nghèo và hình hài tôi xấu cho nên người ta không yêu tôi à? Thì tôi vẫn có thể đưa ra một tuyên ngôn, rằng: Người đời có thể khinh ta, quên ta, nhưng ta vẫn còn riêng ta với trái đất này… Ðó là ý nghĩa của bài Trương Chi…

Nhưng tới khi soạn Trường Ca Sông Lô thì Văn Cao đã không còn dùng phong cách gây ấn tượng trong tác phẩm nữa. Cuộc sống hiện thực và anh dũng của toàn thể dân tộc đã khiến cho anh ra khỏi chất mơ mộng trong việc mô tảcon người, cảnh vật, sự việc trong một giai đoạn lich sử kháng chiến oai hùng của chúng ta.

Trường Ca Sông Lô mở đầu với đoạn 1 mô tả Sông Lô, là con sông ngàn Việt Bắc có bãi dài ngô lau nơi núi rừng âm u, có những ngôi nhà mờ biếc chìm một màu khói Thu... Đó là nơi mà lửa kháng chiến đã làm cháy bờ lau thưa, cháy cả thôn trang. Ai ơi, hãy lặng nhìn màu nước sông Lô xưa mà nhớ tới cảnh cũ người xưa…

Sang đoạn 2 ông chuyển cung, chuyển nhịp để kể cho ta nghe chuyện một đoàn người reo mừng trên sóng nước biếc, trở về và thấy trên sông bao nhiêu là đám xác thù. Đó là người dân hân hoan trở về con sông hiền hòa, bát ngát. Dân hân hoan chiến sĩ pháo binh Việt Nam với tiếng trái phá làm quân thù ngập chìm dòng Lô…

Qua đoạn 3, một lần nữa Văn Cao lại chuyển cung, chuyển điệu: Đây dòng Lô, đây dòng Lô… Với đoàn chiến sĩ sông Lô, thân rừng áo sương, đã vút cao lòng căm hờn và làm cho thây giặc nát tan.

Đoạn 4 của trường ca là đoạn mineure chậm rãi, là lời thề trong đêm gió rét, trong đêm chìm chờ đợi ánh chiêu dương.

Đoạn 5 của trường ca là đoạn majeure nhanh nhẹn nói lên niềm vui hát ca của dân buông lưới, của bóng người sầm uất bến Then…

Đoạn cuối là đoạn 6 xưng tụng dòng sông Lô trôi, dòng sông Lô vẫn trôi, mùa xuân tới nước băng qua ngàn, nước in ven bờ xanh ươm bóng tre… dòng sông Lô lướt trôi, lướt trôi, lướt trôi.

Nếu Thiên Thai chỉ nằm trong một giọng Re (mineure và majeure) và Trương Chi chỉ chuyển nhịp, chuyển điệu trong hai giọng Re và Sol… thì Trường Ca Sông Lô có tới SÁU LẦN chuyển âm (modulations) cũng như chuyển tiết tấu (changing rythmes).

Trường Ca Sông Lô là bản hát dài đầu tiên của chúng ta, là một tuyệt phẩm mà những người đi sau Văn Cao (như tôi) đã học hỏi được rất nhiều ở ông để tiếp tục làm giàu cho âm nhạc Việt Nam.

Tôi muốn được công khai tỏ lòng biết ơn thiên tài Văn Cao trong buổi nói chuyện này.

Phòng Trà TÌNH CA, TP HCM, ngày 5 tháng 10, 2007

Phạm Duy


Ghi chú (của NCTG):

(i) Ca khúc được Văn Cao viết lời đề tặng: "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi khắp chốn".
(ii) Viết chung với Phạm Duy.

(1) Bài thơ Chưa Bao Giờ Buồn Thế.
(2) Bài thơ Em Hiền Như Ma Soeur.
(3) Ca khúc Chỉ Chừng Đó Thôi.
(4) Ca khúc Suối Mơ.
(5) Ca khúc Nương Chiều.
(6) Ca khúc Hạ Trắng.
(7) Trường ca Mẹ Việt Nam (Phạm Duy).
 
Nguồn: http://nhipcauthegioi.hu