Xuân Sương
3/12/2021

Không, không gì cả / Tôi không hối tiếc gì cả / Ngay điều tốt hay xấu thiên hạ làm cho tôi, mặc kệ hết /... / Đã trả xong, đã phủi sạch, đã quên rồi / Tôi cóc cần quá khứ / Với các kỷ niệm / Tôi châm lửa / Mọi nỗi đau, niềm vui / Không cần chúng nữa / Phủi sạch tình nhân / Với giọng rù quyến của họ / Vĩnh viễn quét sạch / Tôi bắt đầu lại từ số không...



Giữa tháng 2-2007, phim La Môme về cuộc đời nữ ca sĩ ngoại hạng Edith Piaf của đạo diễn Olivier Dahan ra mắt khán giả khắp nước Pháp. Phê bình của báo chí và khán giả cho điểm bốn sao. Qua sự diễn xuất tài tình của nữ tài tử điện ảnh Marion Cotillard cao 1m75, bỗng dưng Edith Piaf chỉ cao 1m47 lừng lững bước ra khỏi mộ, đau đớn trữ tình, và cả nước Pháp rưng rưng nghe lại giọng ca duy nhất trong lịch sử nhạc Pháp. Điện thư chuyển cho nhau hình ảnh và tiểu sử Piaf kèm bản nhạc Non Je Ne Regrette Rien (Không, tôi không hối tiếc gì cả) mà Piaf đã hát với tất cả sinh lực của con tim suốt đời chấn thương đa cảm. Tiếp đó kênh Arte chiếu phim tài liệu đời Piaf hai bữa liên tiếp ngày 3- 4 tháng 3 khiến người ái mộ chợt giật mình: giữa bao bận bịu cơm áo hằng ngày với chuyện dao búa chết chóc cơm bữa còn có bóng hình Piaf vỗ về, ru mình vào giấc mơ êm ái dù chốc lát. Con số bán sách về Piaf và nhạc vượt lên, làm người ta nhớ lại buổi trình diễn mang tên «Piaf je t’aime» (Piaf tôi yêu cô) hiến cho đời bà, năm 1996, cũng mang kết quả tương tự.
 
Mặc dầu theo khai sinh, Piaf chào đời ở bịnh viện Tenon, quận 20 Paris ngày 19 tháng 12 năm 1915 dưới tên Edith Gassion, truyền thuyết lại muốn bà sinh ra dưới ngọn đèn đường ở Belleville cùng quận, nơi tụ tập của các tay anh chị, dưới mắt một viên cảnh sát đi tuần! Dù cất tiếng khóc đầu đời nơi nào, Edith lớn lên cất tiếng hát khắp thế giới và được thiên hạ yêu quá đến gần như ghét: một con chim sẻ 1m47 mà vĩ đại đến nỗi khiến các chim đến sau trở thành nhỏ bé. Không thể tìm ra người kế vị. Bởi không những chỉ là Piaf, mà còn cùng thời nước Pháp đã sinh sản những đứa con đem vinh quang cho tổ quốc: Sartre, Cocteau, Chagall... Piaf là nước Pháp, không cần làm marketing, không cần phô trương, chỉ với đam mê và tài năng thực sự...

Tuổi thơ

Bố sống bằng nghề làm xiếc ngoài đường, mẹ người Algérie hát dạo chẳng quan tâm gì đến con nên Piaf được gửi gấm cho bà ngoại. Hai năm sau nhập ngũ, bố gửi Piaf cho bà nội ở Normandie, vùng bắc nước Pháp, là tú bà. Tại lầu xanh, con bé ngày ngày nhìn thấy những tấm lưng trần của các ông chộp hôn gái làng chơi trong hành lang chật hẹp. Có dạo nó bị đau mắt suýt mù. Dầu vậy Piaf được sống mấy năm êm ả trong tình thương của các cô gái, hơn là tình thương của bà nội. Sau chiến tranh bố trở về đem đi sống nay đây mai đó bằng nghề nhào lộn ngoài đường. Để giúp bố, nó hát, và kiếm tiền nhiều hơn trò xiếc sơ đẳng của bố. Từ từ, nó nhận ra giọng đặc biệt của mình rồi đến năm 15 tuổi từ giã bố để bay nhảy với đôi cánh riêng nhỏ bé.
 
Cô chọn khu Belleville và Pigale hát dạo, cô bạn thân Momone đứng lấy tiền. Nếu Piaf lấy tiền thì ra vẻ người hát ăn xin, trong khi người khác lấy tiền thì Piaf là nghệ sĩ. Năm 17 tuổi Piaf gặp người đàn ông đầu tiên trong đời, năm sau sinh đứa con gái để rồi hai năm sau nữa khóc con, viêm màn não. Người đàn ông bỏ đi. Hai mươi tuổi, hầu như mồ côi, Piaf bên bờ vực nghèo đói, sa sút tinh thần, nghiện ngập và suýt làm điếm. Khu vực thường la cà hát kiếm tiền không phải khu tốt, là chỗ của các tay anh chị với đủ kiểu làm ăn. Rồi định mệnh khiến một chiều năm 1935 Louis Leplée, chủ phòng trà ca nhạc Gerny‘s đi ngang, sững sờ trước giọng ca độc đáo, ông muốn thâu dụng cô. Gerny‘s là phòng trà sang trọng nằm trên Champs Elysée, được mệnh danh đại lộ đẹp nhất thế giới. Chính Leplée đã đặt tên Môme Piaf cho cô. Môme, tiếng gọi thân mật con bé, thằng bé, Piaf là tiếng lóng, nghĩa là con chim sẻ, hạp với thân hình mỏng manh. Giọng mạnh, khàn, rung rền, bình dân, đầy kịch tính rất hạp với nhạc Pháp, đã chinh phục ngay khách của Leplée. Chỉ trong một tuần lễ, cả Paris đổ dồn về Gerny‘s và Piaf được xem là một khám phá tuyệt diệu trong năm. Và dù ông cố tạo cho Piaf môi trường sinh hoạt tốt, cô vẫn không từ bỏ thói quen chạy về Belleville và Pigale gặp gỡ đùa nghịch với bạn bè, phần đông là dân anh chị. Bản tính Piaf hồn nhiên ưa cười nói chọc phá với cá tính cực kỳ mạnh mẽ ngang tàng, một con người hoang đàng rộng lượng hết mình, không thể khép vào khuôn khổ.
 
Không may, tháng 2 năm 1936 Leplée giúp cô thâu đĩa 78 vòng thì tháng 4 ông bị ám sát tại tư gia. Vì không thường giao dịch với giới sang trọng này nên Piaf bị điều tra rắc rối và báo chí nghiêm khắc khai thác tối đa, bởi vì những người nhúng tay vào việc ám sát là dân tứ chiếng khu Belleville-Pigale giống đám anh chị «bảo trợ» Piaf . Người ta tẩy chay cô vì nghi chính cô hướng dẫn cuộc ám sát này. Vụ án chẳng bao giờ được làm sáng tỏ. Nhưng chẳng bao lâu, nhờ Raymond Asso, kẻ phiêu lưu và là cựu lính lê dương, rất yêu Piaf và hiểu rõ ưu khuyết điểm của nhân vật duyên dáng bất trị, đã giúp cô trở thành tài năng mà sau này chúng ta được biết. Từ đây con chim sẻ không được phép bay về tổ cũ đầy rác rưởi nữa, cũng không muốn hát sao thì hát. Chính Asso với sự phụ hoạ kiên nhẫn của nữ nhạc sĩ dương cầm Marguerite Monnot, đã luyện tập cho Piaf cách phát âm, cách diễn xuất, ngay cả cách ăn mặc lên sân khấu. Với Asso, Piaf phải làm việc, làm việc và làm việc. Và việc làm được thù lao xứng đáng. (Để diễn xuất gần hệt Piaf mà không có vidéo Piaf hát các bản nhạc trong phim, Marion phải làm việc nhiều đêm tìm điệu bộ diễn xuất, cách di chuyển thân hình và lưỡi, cách ngắt hơi ... Và vì không dễ sống trong vai thần tượng độc đáo một cách trọn vẹn, Marion đã mất rất nhiều thời gian để nhập vào và bước ra khỏi Piaf).

Trưởng thành

Năm 1937, Môme Piaf vĩnh viễn trở thành Edith Piaf, lúc này cô 23 tuổi, thành công rực rỡ trên đường ca nhạc và đóng phim đầu tiên «La Garconne» (Cô gái phóng túng). Họ là tình nhân của nhau đến khi Asso nhập ngũ. Ba năm sau Piaf gặp kịch sĩ Paul Meurisse trong giới trưởng giả cốt cách, một người lịch lãm dè dặt khác với một Piaf sôi nổi bộc tuệch. Trong hai năm tình nghĩa, chính Paul đã dạy cô cách cư xử trong xã hội thượng lưu. Viện sĩ Jean Cocteau (thi, văn, hoạ sĩ...) đã viết một vở kịch riêng cho họ, diễn cảnh đời vợ chồng, vai đàn ông trầm lặng điềm tĩnh khó lay chuyển. Với vở này, người ta chợt khám phá tài năng phi thường của Piaf trong kịch nghệ. Và họ đóng chung phim «Montmartre sur Scène» (Montmartre trên sân khấu). Thời này Piaf là người được ưa chuộng của giới trí thức Paris và hoàn toàn có bản lĩnh làm chủ nghệ thuật và con người mình. Giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, đêm đêm con chim sẻ vẫn cất giọng vàng, chinh phục không những con tim dân sang trọng Paris mà cả con tim thế giới và đạt được vinh quang tức khắc. Trong khi Pháp bị Đức chiếm đóng, dân Paris quan niệm «phải học ngôn ngữ của kẻ thù» và bí mật kháng chiến, Piaf vẫn hát không ngừng trong các vùng tự do, cho cả dân bị trị và dân cai trị. Người ta trách Piaf nhất là đã qua hát tận Bá Linh theo lời mời của Đức khiến sau khi Paris được giải phóng, Piaf bị rất nhiều phiền phức.
 
Vào khoảng 30 tuổi, dày kinh nghiệm và không biết mùi thất bại, Piaf giúp đỡ những người cô cho là xứng đáng. Vì vậy khi gặp Yves Montand cuối hè 1944, không những Piaf bị tiếng sét ái tình mà còn lo cho sự nghiệp của Yves, từ tiết mục các bản nhạc đến tủ quần áo. Và năm sau họ cùng xuất hiện chung trong phim Etoile sans lumière (Sao không ánh sáng). (Về sau này tả trước công chúng về buổi gặp gỡ Piaf đầu tiên, Yves nói đã bị choáng ngợp bởi lòng ngưỡng mộ tuyệt đối trước một Piaf trẻ đẹp tài hoa. Và khi xa nhau, chính Yves là người đau khổ). Cho Yves, Piaf viết bài La Vie En Rose (Đời màu hồng), một trong những bản nhạc của mọi thời đại đã bay khắp thế giới. Hai năm sau, Piaf có dịp quen biết nhóm ca sĩ trẻ Compagnon de la chanson (Bạn ca hát) và cũng như với Yves Montand, Piaf tự thấy có trách nhiệm lo cho sự nghiệp họ và đề nghị thâu chung Les Trois Cloches (Ba quả chuông), kết quả sét đánh, bán cả triệu đĩa. Piaf quyết định dẫn họ cùng qua Mỹ trong vòng trình diễn đầu tiên của cô vào năm 1947.
 
Chuyến viễn du qua bên kia Đại Tây Dương là một thách thức thực sự cho đứa con của Belleville. Những buổi trình diễn đầu tiên trong các phòng trà ca nhạc Nữu Ước không lôi kéo được sự quan tâm của dân Mỹ chút nào bởi họ chẳng hiểu biết gì về nhân vật Piaf. Nhưng tình cờ đọc được bài phê bình cực kỳ khả quan trên một tờ báo lớn ở đây, Piaf quyết định ở lại dù ngày trở về Âu Châu đã định. Cô ký hợp đồng hát một tuần cho Café Versailles, phòng trà rất chọn lọc ở Manhattan. Thành công rực rỡ. Thay vì về Âu châu, cô ở lại Nữu ước bốn tháng, và các năm sau thường quay lại chốn này.
 

Tình yêu và vinh quang

 
Chuyến đi lịch sử trên đã vô tình thay đổi đời Piaf bởi hai cuộc gặp gỡ quan trọng. Một với Marlène Dietrich, nữ ca kịch sĩ, họ trở thành bạn thân và giữ liên lạc với nhau đến ngày Piaf chết. Chính Marlène dạy Piaf tiếng Anh và rất nhanh, Piaf đã có thể nói và hát thứ tiếng ngoại quốc này. Và nhất là, hai, Piaf yêu điên cuồng vô địch thế giới đánh bốc Marcel Cerdan, cũng người Pháp đang ở Nữu Ước, mà cô đã gặp lần đầu tiên ở Paris trong phòng trà rất thời thượng Club des Cinq (Câu lạc bộ năm người). Lần đó chỉ là cái bắt tay, không tiếng sét, không tiếng lòng. Rồi mỗi người một nghiệp bay đi chinh phục Mỹ châu với đôi cánh thiên thần của mình. Và định mệnh cho họ gặp lại nhau trong thành phố Nữu Ước rộn ràng để yêu nhau cuồng nhiệt. Cô ca sĩ mảnh khảnh với giọng ca vang dội tiếng chuông đồng và anh lực sĩ to như gấu với tiếng cười dòn dã sảng khoái có vợ bốn con được mệnh danh «Vua đánh bốc, hoàng hậu ca sĩ,» làm tổn hao bao nhiêu giấy mực và được xem là mối tình lãng mạn danh tiếng nhất thế kỷ. Cả hai đều nổi tiếng thế giới nhưng khác ngành nhau một trời vực. Trong hai năm, Piaf và Cerdan sống với nỗi đam mê không ai sánh kịp. Họ như mọi người, yêu nhau như mọi người, nhưng khác hẳn mọi người. Với Marguerite Monnot, Piaf viết L’hymne à l’amour (Thánh ca tình yêu) cho anh, một trong những bài nổi tiếng nhất và được hát nhiều nhất. Người ta còn giữ lại hình ảnh Piaf nhỏ bé với chiếc áo đen ngập tràn ánh đèn sân khấu đang diễn tả mối tình vĩ đại đời mình.
 
Nhưng cái chết bất ngờ của Cerdan tối 27 rạng ngày 28-10-1949 trên chuyến bay Paris-Nữu Ước đã biến câu chuyện tình tuyệt vời thành thảm kịch. Muốn được gặp nhau càng sớm càng tốt, Piaf điện thoại bảo Marcel hãy lấy máy bay thay vì tàu thủy, bởi vì cuộc hành trình kéo dài lâu quá sẽ giết cô chết mất, trong khi cô mỏi mòn ngóng đợi từng giây. Cho đến lúc đó, hàng không Constellation chưa hề có vấn đề. Nhưng chuyến bay mang Marcel Cerdan đến cho Piaf đã bị nạn trên không phận Acore lãnh thổ Bồ Đào Nha. Sáng ngày 28 tháng 10 thức dậy nhận hung tin, Piaf không tin, mở cửa từng phòng tìm kiếm vì rõ ràng anh vừa về, cô mới pha cho anh ly cà phê hãy còn nóng hổi trên giường. (Chỗ này trên màn ảnh không còn âm thanh, chỉ một Piaf gào Marcel, Marcel, Marcel... và như không biết phải làm gì, những ngón tay rất đẹp co duỗi quýnh quáng. Cánh cửa cuối cùng cô mở dẫn thẳng ra sân khấu, khán giả đang im lặng chờ đợi, ánh sáng rực rỡ trước mặt, khán giả xem phim chỉ thấy phần lưng mỏng manh, tối đen...). Thực tế ngoài đời, đêm ấy Piaf có chương trình trình diễn. Khóc suốt ngày rồi ban đêm, một Piaf nghị lực phi thường ra sân khấu. Nhưng hát đến bài thứ sáu thì Piaf bật khóc ngất xỉu. Đó là bài Le chant d’amour (Ca khúc tình yêu) Nếu bạn muốn nghe/ Tôi sẽ hát một tình khúc/ Một tình khúc thật tầm thường / Cho đôi tình nhân yêu nhau / Nếu bạn để tôi kể / Chuyện tình đẹp như mơ / Vậy hãy để tôi hát... Cái tang này đã khiến Piaf triền miên suy sụp tinh thần cho đến mãn đời, không vươn lên nổi. Vốn bản tính hay tin «thế giới bên kia,» Piaf lao vào những trò thần bí ngay cả thuyết thông linh, thường tới lui các ông bà «thầy» chỉ để nghe họ lặp đi lặp lại từng đó chuyện chẳng đâu vào đâu nhưng có thể giúp an lòng Piaf. Cả tuần không ăn uống, Piaf chỉ muốn một điều duy nhất: Marcel của cô trở lại. Cô bạn thuở hát dạo Momone phải học cách làm cái bàn di chuyển, và khuyên Piaf ăn uống. Tin đó là lời Marcel sai khiến, Piaf chịu ăn, đến nghẹn cổ mới thôi.
 
Dầu vậy cô vẫn không ngừng làm việc và trình diễn với một ý chí siêu phàm. Lúc này tài tử kiêm nhạc sĩ trẻ Charles Aznavour (hiện còn sống, rất được dân Tây cưng, gọi là Petit Charles - Charles bé, để phân biệt với Tổng thống Charles De Gaules là Grand Charles -Charles lớn) trở thành kẻ đồng hành đặc biệt: thư ký riêng, tài xế, bạn tâm sự... Và đây là người duy nhất có liên hệ chặt chẽ thân thiện với Piaf mà không phải tình nhân. Từ lâu Piaf đã giúp Charles hoàn chỉnh khi lên sân khấu, nhưng không chủ động lèo lái như đối với Yves Montand hay nhóm Bạn Ca Hát, mặc dù Charles đã viết cho cô nhiều bản nhạc rất thành công.
 
Năm 1951 Piaf cặp với Eddie Constantine, ca sĩ diễn viên trẻ người Mỹ gốc Hy Lạp. Cùng diễn vở nhạc kịch «La p’tite Lili» (Con bé Lili), áp phích kéo dài bảy tháng chưa kịp tháo xuống thì họ đã chia tay. Năm ấy Piaf bị hai tai nạn xe hơi, lần thứ hai suýt chết phải nằm liệt giường rất lâu và chích mọc phin. Thêm với rượu, mọc phin đóng vai trò tàn hại sức lực Piaf vốn đã mong manh.
 
Rồi duyên nợ dẫn Piaf gặp và làm đám cưới với ca nhạc sĩ nổi tiếng Jacques Pills năm 1952. Họ ở trong căn hộ ở Paris mà Piaf giữ cho đến ngày nhắm mắt. Trong giai đoạn này Piaf theo nhiều đợt giải độc. Dù bị rượu và mọc phin tàn phá, thời gian này Piaf lên tuyệt đỉnh vinh quang nghệ thuật, đĩa thâu hay các buổi trình diễn đều thành công ngoại hạng. Giới thân cận che giấu báo chí tình trạng sức khoẻ của Piaf, cô ẩn dật nhiều tháng trời trong hai năm tiếp đó, giữa các chuyến viễn du Nữu ước-Mễ Tây Cơ-Rio-Paris. Đi để khuây khoả hình ảnh con ma Marcel không bao giờ rời. Đi để quên những ngày hạnh phúc trong hai năm, quá dài và quá ngắn. Đi để bàng hoàng nhận ra rằng trong mọi vòng tay đàn ông, không vòng tay nào vững chải mạnh mẽ và êm ái như vòng tay người đánh bốc. Chỉ đến năm 1955 khi biết sẽ hát ở Olympia, phòng trình diễn tầm cỡ tiếng tăm nhất Paris, Piaf hoan hỉ tìm lại sinh lực làm việc mặc dù sức khoẻ hết sức tàn tạ. Và vinh quang rực rỡ với giọng mạnh mẽ truyền cảm làm rối loạn lòng người, trước khán thính giả chọn lọc sành điệu thủ đô. Nơi đây Piaf có dịp trở lại nhiều lần. Rồi Piaf lại dọc ngang nước Mỹ với chương trình rất nặng. Cuối cùng chấm dứt tại Nữu Ước vào đầu năm 1956 với buổi trình diễn 22 bài tại thính phòng Carnegie Hall, 10.000 vé bán ra, là ca sĩ tạp diễn đầu tiên hát tại «miếu đền» nhạc cổ điển này. Thành công tột đỉnh. Piaf thực sự nghiễm nhiên bước vào danh sách ngôi sao quốc tế. Con đường thênh thang.
 
Nhưng nếu đường sự nghiệp suông sẻ rực rỡ bao nhiêu thì đường tình duyên truân chuyên khập khiễng bấy nhiêu: năm 1956 Piaf ly hôn với Jacques Pills. Sở thích của Piaf là nắm vận mạng đàn ông, dạy dỗ rồi biến họ thành ngôi sao nghệ thuật. Ca nhạc sĩ Georges Moustaki cùng Marguerite Monnot viết cho Piaf ca khúc «Milord» nằm trong danh sách những bài hát thành công nhất của cô, cũng không thoát khỏi luật lệ này. Cả hai đều cá tính độc đáo mạnh mẽ nên thành tình nhân, họ sống những ngày nhộn nhịp náo động và cùng bị tai nạn xe hơi thập tử nhất sinh mùa thu 1958, bị gãy ba xương sườn, làm giảm thiểu sức khoẻ vốn đã bệ rạc của Piaf. (Đoạn này màn ảnh tối đen, âm thanh chỉ còn tiếng mưa tầm tã. Bỗng tiếng va chạm chát chúa của sắt thép, tiếng kính bể sắc sảo loảng xoảng... Không một tiếng kêu của người bị nạn). Đầu năm sau đang trên đỉnh vinh quang ở Nữu Ước, Piaf xỉu trên sân khấu phải đưa vào bịnh viện mổ cấp cứu. Piaf trở về Paris trong tình trạng thảm thương. Moustaki bỏ đi. Piaf sống vật vờ, yếu lả, bịnh hoạn...
 
Cho đến một ngày nhạc sĩ trẻ Charles Dumont đem bản «Non je ne regrette rien» đến, mới chỉ hát trình diễn vài câu, Piaf bảo ngừng «Tôi sẽ hát bài này. Đó là đời tôi.» Và mấy tháng sau, đầu năm 1961, mặc dầu sức khoẻ tồi tệ vì thuốc men và các lần mổ xẻ, Piaf không nghe lời ngăn cản của bác sĩ và người thân cận, vẫn giữ lời hứa với người bạn giám đốc Olympia, hát để cứu phòng trình diễn đang trên đường khánh tận. Và thắng lợi rực rỡ với giọng ca vượt thời gian không ai sánh nổi, đã rút hết gan ruột diễn tả nỗi lòng mình, để nói mình không có gì hối tiếc. Một Piaf đau đớn kiêu hãnh phân trần, đang tự nhủ chính mình và hứa hẹn với mọi người... Cả nước Pháp xúc động. (Ai cũng thích bài hát này, nhưng xem phim mới thấy thấm thía Piaf trình diễn trong tâm trạng thế nào. Khán giả trên màn hình há hốc, sửng sốt, bị thôi miên. Khán giả trong rạp xi nê lặng lẽ chặm mắt. Hai loại khán giả cùng một nỗi niềm: xúc động cực độ và thương cảm vô cùng người đàn bà bé nhỏ có cuộc đời nổi chìm ngoại hạng).
 

Cuối đời

 
Mùa hè 1961, Piaf gặp và yêu người đàn ông cuối cùng trong đời, cũng là người cuối cùng Piaf lăng xê: ca sĩ Theophanis Lamboukas gốc Hy lạp mà Piaf gọi thân mật Sarapo. Tháng Sáu Piaf nhận giải đĩa hát của l’Académie Charles Cros (Viện Hàn Lâm Charles Cros) cho toàn bộ sự nghiệp. Cuối năm, nữ nhạc sĩ dương cầm Marguerite Monnot tạ thế, Piaf mất thêm một người thân. Tháng 9-1962, Piaf hát lần cuối ở Olympia với chương trình chỉ gồm những bản nhạc tâm tình và ngày 25 từ trên cao tháp Eiffel, Piaf hát cho phim Le Jour Le Plus Long (Ngày dài nhất) lần chiếu ra mắt đầu tiên, bên dưới hầu hết là tài tử ngẩng đầu nhìn lên. Đêm đó, Piaf hát cho cả Paris phủ phục dưới chân mình.
 
Đầu tháng 10, Piaf làm đám cưới với Sarapo. Tháng 2-1963 họ cùng trình diễn bài A quoi ca sert l’amour? (Tình yêu ích gì?). Chẳng ích gì vì quá trễ rồi: hai tháng sau Piaf rơi vào tình trạng hôn mê. Mỗi khi chợt tỉnh giữa hai lần hôn mê nhìn thấy Sarapo chăm sóc bên giường bịnh, Piaf nói chẳng khác nào con trai săn sóc mẹ già, vì Piaf lớn hơn những 20 tuổi. Vậy thì tình yêu ít nhất cũng có ích vào chuyện chăm sóc nhau những lúc cuối đời.
 
Vĩnh biệt ngày 10-10-1963, thi hài Piaf được kín đáo mang về Paris và công bố ngày 11, cùng ngày với bạn thân Jean Cocteau. Hai người rất yêu quý nhau nên thiên hạ gọi «vợ chồng trong cái chết.» Bà được an táng tại nghĩa trang Père La Chaise với cả Paris đưa tiễn. Trong hai ngày, từng hàng dài người ái mộ đến phúng điếu. Họ tha thứ cho cuộc đời không lấy gì gương mẫu của bà và giữ lại cái tài vô hạn với lòng tôn kính biết ơn «con bé ngoài đường.» Người ta tự hỏi không biết nếu nhạc sĩ Charles Dumont soạn bản Non je ne regrette rien sớm hơn vài năm, có thể cứu giúp Piaf khá hơn không? Piaf viết lời (có khi cả nhạc) cho khoảng 80 bản nhạc, đóng nhiều phim và kịch.
 
Trong đống giấy tờ, người ta tìm thấy lá thư lạ lùng như sau không bao giờ gửi:
 
«Tôi không sợ chết. Tôi không bao giờ thất vọng vì tình. Các tình nhân đã mang lại cho tôi kinh nghiệm quý báu. Tôi không hối tiếc về những gì đã làm, về những gì đã biết, và nếu phải làm lại thì tôi cũng sẽ bắt đầu như vậy. Xin tạ ơn trời đã cho tôi cuộc đời cùng khả năng sống này, bởi vì tôi đã sống trọn vẹn một trăm phần trăm và không có gì tiếc rẻ.»
 
Cho mãi đến giờ, trên mộ Piaf luôn luôn đầy hoa tươi của khách thập phương, bởi Piaf đã đi vào huyền thoại và không thể bước ra. Bà là đứa con cưng trong khi chết cũng như trong lúc sống. Cuộc đời bà có nhiều đoạn hư hư thực thực bởi chính bà, với bản lĩnh mạnh mẽ bướng bỉnh cũng vô tình tạo thêm huyền tạp bất thường. Đối với dân Pháp, Piaf không chết, chỉ đi lưu diễn đâu đó ít lâu rồi lại trở về, lộng lẫy giàu có hơn vì thêm đàn con cháu mới.
 
Người ta có thể thăm bà mỗi ngày tại bảo tàng Edith Piaf (đường Crespin du Gast, quận 11 Paris) viện bảo tàng dành cho bà. Và tại quãng trường Edith Piaf cách bịnh viện Tenon mấy thước, nơi La Môme chào đời, ngày 11-10-2003 kỷ niệm 40 năm Piaf mất, thị trưởng Paris đã khánh thành dựng bức tượng đứa con của đường sá.
 
Paris, Mars 2009
 
Bibliographie :
 
- RFI Musique
- Wikipédia
- Piaf-Cerdan, un hymne à l’amour: 1946-1949 / Patrick Mahé và Dominique Grimault.- Robert Laffon , 2007.
 
Nguồn: https://www.diendantheky.net/2021/12/xuan-suong-edith-piaf-khong-co-gi-hoi.html