Cung Tiến: Những Tình Khúc Lãng Mạn Về Cố Nhân

Việt Hải
30.3.2011

Nhà báo Vương Trùng Dương hỏi tôi có bài viết nào về nhạc sĩ Cung Tiến không để anh đăng báo nhân dịp Đêm Cung Tiến “Vết Chim Bay” được tổ chức vào trung tuần tháng Bảy nầy tại Nam California.

Về Cung Tiến tôi có những kỷ niệm khi gặp nhạc sĩ kiêm giảng sư đại học ở sân trường đại học xưa. Hình như khi đó tôi gặp ông, cố nhân chưa có. Nhạc của ông thật hay, với tôi, trên lý thuyết nhiều hơn. Mãi sau năm u buồn 1975, nhạc sĩ Cung Tiến sang Minnesota, tôi sang Nam Cali, tôi tiếp tục nghiệp đèn sách, trau dồi kinh sử, cắp sách đến trường học cho có cái mãnh bằng lận lưng, có cái nghề hậu thân như lời mẹ căn dặn, mỗi đêm khuya ngồi lắng đọng tâm tư với bài vở, có lúc nhạc Cung Tiến nhảy ra bên tai từ chiếc stereo trong nhà bỗng vang vọng âm thanh be bé của Hương Xưa, của Hoài Cảm khiến con tim hăm hai biết ý nghĩa xao xuyến cố nhân Sài Gòn xưa, rồi cố nhân sang Paris. Tôi thầm nghĩ GS Cung Tiến tài thật. Ông đã trao cho đàn em những lý thuyết kinh tế dù khó khăn, và hơi khô khan. Nhưng trái lại âm nhạc của nhạc sĩ Cung Tiến không chê vào đâu. Khi cố nhân ở gần hình như nhạc của ông ít thấm thía, ít dày vò, ít len lén tâm tư như khi cố nhân ở xa ta.

Trước những năm 75, Giáo sư Cung Thúc Tiến giảng dạy học tại trường đại học Kinh Thương (tức Kinh Tế & Thương Mại, Economics & Business) nơi tôi mài đũng quần trên ghế nhà trường. Trái ngược với môn Kinh tê, Tài chánh gồm nhiều số liệu, dữ kiện đo lường, những lý thuyết mang nhiều thống kê, toán học, những thực tế của đời sống thường nhật, dù giảng dạy và làm việc với nghề nghiệp xét ra chẳng có tí ti lãng mạn, nhưng tâm hồn của nhạc sĩ Cung Tiến phải nói là lãng mạn vô song, nhạc dâng nỗi niềm nhớ thương biết bao giờ nguôi, buổi chiều nhung nhớ cố nhân len lén trở về với tâm tư cô đơn,…

Thực vậy, cũng như mỗi khi đêm về nghe bài Dạ Khúc của Schubert do Cung Tiến đặt lời, tiếng dương cầm lướt trên phím đuổi theo từng nốt nhạc, tiếng réo rít của vĩ cầm, hòa lẫn theo tiếng trầm bổng của cello, hihihi… phải nói là một hồn bay lên tận mây xanh sảng khoái… Sao mà “đã tai” quá vậy khi mà từng lời ca rót nhẹ vào tâm hồn trầm ngâm, lắng đọng cho từng cung nhạc, cho phê cõi lòng, cho buốt thính nhỉ, như từng nhịp đập tim yêu rung động thời mây cao mấy tầng, tuổi hạc vun đầy bao mơ mộng như tôi?

Người ơi, môt chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa
Người ơi, đường xa lắm con đường về làng dìu mấy thuyền đò.
Còn đó tiếng tre êm ru, còn đó bóng đa hẹn hò,
Còn đó những đêm sao mờ hồn ta mênh mông nghe sáo vi vu
Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm bên ao
Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao
Còn đó tiếng khung quay tơ, còn đó con diều vật vờ
Còn đó, nói bao nhiêu lời thương yêu đến kiếp nào cho vừa…

Hương Xưa được nhạc sĩ Cung Tiến đặt lời đề tặng cho ca sĩ Duy Trác. Nhạc hay đã đành, gắn liền với tên tuổi Franz Schubert, lời lại rất hay, ăn khớp với nhạc, ý nghĩa, trữ tình gột tả nội tâm sâu lắng đã tạo nên những cảm xúc nồng nàn nhất khi một người nhớ một người.

Người ơi, một chiều nắng tơ vàng
hiền hòa hồn có mơ xa?
Người ơi, đường xa lắm
con đường về làng dìu mấy thuyền đò
Còn đó tiếng tre êm ru
Còn đó bóng đa hẹn hò
Còn đó những đêm sao mờ

Nào, bây giờ ta hãy xét qua một tác phẩm numero uno khác của Cung Tiến. Trên trang mạng tapchiamnhac.net, tác giả Nguyễn Quang Học viết:

“Một “Hoài Cảm” chưa thể nói hết về Cung Tiến, song rõ ràng đây là một ca khúc thành công nhất trong cuộc đời sáng tác của ông. Trước năm 1975 đã có rất nhiều ca sĩ thể hiện “Hoài Cảm” nhưng có lẽ chưa có ai thể hiện “Hoài Cảm” lại “Hoài Cảm” bằng Lệ Thu. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện Lệ Thu xử lý từng nốt nhạc, từng lời hát một cách chuẩn mực và chín chắn đến mức tuyệt dỉnh. Tiết tấu của Hoài Cảm khá chậm, song chắng thể khác bởi nó miêu tả một nỗi nhớ rưng rức, một nỗi nhớ bâng khuâng lâng lâng len lén nhen lên từ sâu thẳm tâm hồn trong cảnh chiều tà hiu quạnh vốn chỉ chuốc tâm tư cho những kẻ lãng tử nghệ sĩ. Cung Tiến viết “Hoài Cảm” ở giọng đô thứ cung đô thường nên bài ca mang tính dân tộc rất cao. Những nhạc sĩ sau này được đi học bên Tây bên Tàu rốt cuộc chỉ mang về cho đất nước một mớ nhạc lơ lớ lai căng làm nền âm nhạc Việt Nam rơi vào tình trạng hổ lốn, mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy viết khiến cho diện mạo âm nhạc nước nhà méo mó hỗn loạn. Họ nói đó là sự phát triển, là sự tiếp thu học hỏi lẫn nhau, là sự hòa nhập vào dòng chảy âm nhạc nhân loại…vv. Vâng, họ hòa nhập đấy, tiếp thu đấy, phát triển đấy nhưng họ dựa vào cái gì ? Cội nguồn âm nhạc của dân tộc thì bị lãng quên, bỏ bê không chút xót xa tiếc nuối. Họ nghĩ rằng làm như thế để tỏ cho thiên hạ biết rằng ta đây đã được đi học Tây học Tàu rồi hay sao? Thật đáng buồn đến đáng giận. Song cũng đành phải thông cảm cho họ khi tầm hiểu biết của con người là có giới hạn. Họ cũng chỉ làm theo những gì họ đã biết, đã học, đã được dạy dỗ. Ý thức về âm nhạc dân tộc là một cái gì đó rất đỗi quê mùa lạc hậu trong họ. Có lẽ chính vì những lý do trên mà “Hoài Cảm” của Cung Tiến cùng một số bản nhạc, ca khúc viết ở những thang âm dân tộc của một số nhạc sĩ cùng thời ông và sau này càng trở nên có giá trị, được trân trọng trong số những ca khúc buổi ban đầu của bình minh âm nhạc Việt Nam. Ở đoạn b cao trào Cung Tiến đã viết ở cung đô trưởng. Chuyển điệu làm cho bài hát khỏe khoắn hẳn lên, nỗi nhớ dâng trào tới đỉnh điểm chứ không còn man mác miên man như đoạn a. Phải có kỹ thuật và kiến thức âm nhạc tương đối khá mới có thể viết được như thế (Xin nói thêm rằng những nhạc sĩ tiền chiến hiếm có người được đào tạo qua trường lớp chính quy). Cũng có lẽ chỉ là chút hâm mộ một ca khúc hay nên phỏng đoán vậy chứ thực sự nếu chưa được như thế thì chỉ càng khẳng định sự tài hoa của Cung Tiến, người nghệ sỹ với nỗi nhớ cố nhân mênh mông bao phủ những hoàng hôn của dân tộc.”

Người trong xứ hâm mộ thầy Cung Tiến như thế này thì nhạc Cung Tiến đại biểu cho nhạc vàng của VNCH “dzách lầu” rồi còn gì bàn cãi chi nữa nhể? Chưa hết, một vị thính giả khác của nhạc Cung Tiến nối tiếp cho lời nhận xét nồng nàn chẳng kém nhé. Mời đọc:

“Uh, bài này Lệ Thu thể hiện hay nhất! hihi… Không hiểu mỗi lần nghe bài nì buồn đến lạ! huhu… Nỗi buồn đó cứ như kẻ trộm, ta đã khép kín cửa nhưng nó vẫn cứ lẻn vào…nhẹ nhàng xâm chiếm! Nỗi buồn trong bài hát này đến không nhanh, chầm chậm thôi… như làn khói vào phòng khép kín…chỉ một làn khói nhẹ nhưng có sức lan tỏa ghê gớm! Vậy là toàn bộ ta đã bị nó chế ngự mất rồi…

 
Bạn thử ngâm nga bài này thử đi… nho nhỏ thôi…và bạn sẽ thấy bạn hát trong tiếng nghẹn ngào… như muốn khóc mà không thể khóc… Nó như ứ đọng ngay ở cổ họng, chực thoát và khi có cơ hội nó nấc lên da diết ngậm ngùi” Lòng cuồng điên vì nhớ. Ôi đâu người, đâu ân tình cũ?”… Bài hát từng câu từng chữ đều đượm buồn…một cái buồn rất thu…”mùa thu tràn nỗi nhớ”…. và một giọng hát xa vắng… Mình cũng thích bài này lắm… dù nghe bài này chả khi nào thấy vui!!!…”

Thấy chưa nhạc Cung Tiến da diết, ngậm ngùi như me-sừ thính giả trên cho cảm nghĩ thực lòng đấy nhé!? Như vậy thì nhạc Cung Tiến lại thêm bảnh hơn nữa với tình khúc Hoài Cảm hay yêu hoài, tâm tư cứ mãi bị người yêu hành hạ, bị cố nhân dày vò ray rứt tâm tư như muốn khóc. Được yêu, được buồn, được khóc, chao ôi, nhất cõi đời rồi, còn gì sung sướng bằng nhể? Hỡi những bạn tôi khi tương tư lòng, khi cố nhân bước xa xa bạn rồi, huhuhu… cơn nhung nhớ cố nhân dằn vật dâng cao tràn ngập hồn già ở tuổi biết yêu, xin bạn hãy vô tư cho lệ rơi đi nhe, nghe thanh âm Cung Tiến thỏ thẻ, nho nhỏ khi chiều buồn len lén tâm tư, cố nhân đã đi xa xa ta rồi, hmm… cho hồn này khôn nguôi, hmm… cho lòng này không vui… Một hồn cô liêu, buồn chi lạ, biết nói chi nhể?

Chiều buồn len lén tâm tư
Mơ hồ nghe lá thu mưa
Dạt dào tựa những âm xưa
Thiết tha ngân lên lời xưa

Quạnh hiu về thấm không gian
Âm thầm như lẫn vào hồn
Buổi chiều chợt nhớ cố nhân
Sương buồn lắng qua hoàng hôn

Lòng cuồng điên vì nhớ… cố nhân ơi. Nghe hết bài nhạc sẽ đưa ta về sự mộng mơ của tuổi biết yêu đương, biết nhớ thương, biết ngóng trông, biết rung động con tim xanh trót trao cho cố nhân; Vâng, Hoài Cảm theo tôi chính là một cung khúc “giết người trong mộng”.

Sau đây là phần điểm qua tiểu sử và tác phẩm âm nhạc, văn học và cảm nghĩ của nhạc sĩ Cung Tiến. Ông được xem như một nhạc sĩ nổi tiếng theo dòng nhạc tiền chiến. Có thể nói ông là nhạc sĩ trẻ nhất có sáng tác được phổ biến rộng với bài Hoài Cảm năm 14 tuổi. Mặc dù Cung Tiến chỉ xem âm nhạc như một thú tiêu khiển nhưng ông đã để lại những nhạc phẩm rất giá trị như Hương XưaHoài Cảm, điển hình cho loại nhạc thính phòng, loại nhạc thanh cao.

* Đôi nét về tiểu sử:

Cung Tiến tên thật là Cung Thúc Tiến, sinh ngày 27 tháng 11 năm 1938 tại Hà Nội. Thời kỳ trung học, Cung Tiến học xướng âm và ký âm với hai nhạc sĩ nổi tiếng Chung Quân và Thẩm Oánh. Trong khoảng thời gian 1957 đến 1963, Cung Tiến du học ở Australia ngành kinh tế và ông có theo tham dự các khóa về dương cầm, hòa âm, đối điểm, và phối cụ tại Âm nhạc viện Sydney.

Trong những năm 1970 đến 1973, với một học bổng cao học của Hội đồng Anh (British Council) để nghiên cứu kinh tế học phát triển tại Cambridge, Anh, ông đã dự các lớp nhạc sử, nhạc học, và nhạc lý hiện đại tại đó.

Vào đầu thập niên 1980 Cung Tiến phổ nhạc từ 12 bài thơ trong tù cải tạo của Thanh Tâm Tuyền mang tên “Vang Vang Trời Vào Xuân”, tập nhạc này được viết cho giọng hát và Piano và được trình bày lần đầu tiên tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào năm 1985.

Năm 1987, Cung Tiến viết nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm, soạn cho 21 nhạc khí, được trình diễn lần đầu vào ngày 27 tháng 3, 1988 tại San Jose với dàn nhạc thính phòng San Jose, và đã được giải thưởng Văn Học nghệ thuật quốc khánh 1988.

Năm 1992, Cung Tiến hoàn thành tập Ta về, thơ Tô Thùy Yên, cho giọng hát, nói, ngâm và một đội nhạc cụ thính phòng. Năm 1993, với tài trợ của The Saint Paul Companies để nghiên cứu nhạc quan họ Bắc Ninh và các thể loại dân ca Việt Nam khác, ông đã soạn Tổ khúc Bắc Ninh cho dàn nhạc giao hưởng. Năm 1997, ca đoàn Dale Warland Singers, đã đặt ông một bản hợp ca nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập ca đoàn nổi tiếng quốc tế này. Năm 2003, Cung Tiến đã trình làng một sáng tác nhạc đương đại Lơ thơ tơ liễu buông mành dựa trên một điệu dân ca Quan họ. Ông là hội viên của hội nhạc sĩ sáng tác ở Minneapolis, Minnesota, Hoa Kỳ.

* Về tác phẩm âm nhạc:

Cung Tiến sáng tác rất ít và phần lớn các tác phẩm của ông đều sau 1954, trừ bài Thu vàng, Hoài Cảm được ông viết năm 1953 khi mới 15 tuổi, nhưng chúng thường được xếp vào dòng nhạc tiền chiến bởi cùng phong cách trữ tình lãng mạn. Tự nhận mình là một kẻ amateur trong âm nhạc, viết nhạc như một thú tiêu khiển, Cung Tiến không chú ý tác quyền và lăng xê tên tuổi mình trong lĩnh vực âm nhạc. Các nhạc phẩm Hoài Cảm, Hương xưa của ông được xếp vào những ca khúc bất hủ của tân nhạc Việt Nam.

Tác phẩm

Tổ khúc Bắc Ninh – Nhạc tấu khúc Chinh phụ ngâm – Ta Về – Lơ thơ tơ liễu buông mành
Tổ khúc Bắc Ninh…
Ca khúc
Đêm (thơ Thanh Tâm Tuyền) – Đêm hoa đăng – Đôi bờ (thơ Quang Dũng) – Hoài Cảm – Hoàng hạc lâu (thơ Thôi Hiệu – Vũ Hoàng Chương dịch) – Hương xuân – Hương xưa (viết tặng Duy Trác) – Kẻ ở (Mai chị về) (thơ Nguyễn Đình Tiên, thường bị nhầm là của Quang Dũng) – Lệ đá xanh (thơ Thanh Tâm Tuyền, viết tặng Phạm Đình Chương) – Mùa hoa nở – Nguyệt cầm (ý thơ Xuân Diệu) – Thu vàng – Thuở làm thơ yêu em (lời Trần Dạ Từ) – Vết chim bay (thơ Phạm Thiên Thư)

* Về tác phẩm văn chương:

Ông có dịch hai đại tác phầm của hai văn hào Nga là Fyodor Mikhailovich Dostoevski và Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn ra Việt Ngữ.

– Hồi Ký Viết Dưới Hầm (bản dịch tác phẩm của M. Dostoievski, 1969).
Vào năm 1864 Dostoevski cho xuất bản cuốn Hồi Ký Viết Dưới Hầm là tác phẩm về chủ nghĩa hiện sinh hay nhất từng được viết trong nền văn học của thế giới.

– Một Ngày Trong Đời Ivan Denissovitch (dịch từ A. Solzhenitsyn, 1969).
Một Ngày của Ivan Denissovitch kể về những gì xẩy đến cho một người tù cải tạo tên Ivan Denissovitch trong một ngày dưới chế độ bạo ngược cộng sản Stalin.

Trong lãnh vực văn học, giữa thập niên 50 và 60, với bút hiệu Thạch Chương, Cung Tiến cũng đã từng đóng góp những sáng tác, nhận định và phê bình văn học, cũng như dịch thuật, cho các tạp chí Sáng Tạo, Quan Điểm, và Văn.

Nhóm Sáng Tạo là nhóm nổi tiếng nhất xuất phát từ phong trào di cư từ miền Bắc 1954. Hoạt động của họ là mở một con đường mới về ngôn ngữ hình ảnh cũng như về lý tưởng tự do, ông hợp tác với họ bằng những bài viết về triết học cũng như những nhận định âm nhạc lúc đó ông đã đi du học. Thế hệ trẻ về sau là lớp học trò của Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng của Sáng Tạo. Sau khi định cư tại Hoa Kỳ, ông có viết cho một số báo với bút danh là Đăng Hoàng.

Việt Hải

Nguồn: https://www.dutule.com/a5808/viet-hai-cung-tien-nhung-tinh-khuc-lang-man-ve-co-nhan

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây