Câu Chuyện Âm Nhạc – Kỳ 2

Sơn Diệm Vũ Ngọc Ánh
2004

Nói tới hội hát Phát Diệm, tôi không thể không nói tới một nhân vật mà ngày nay rất ít người còn nhớ. Người ta thường gọi ông là Hoành đen (để phân biệt với ông Hoành Ký, chủ hiệu chụp ảnh đầu tiên của Phát Diệm). Nhà ông Hoành đen ở phía Nam bờ hồ nhà Thờ Lớn Phát Diệm. Bà Hoành chuyên bán quà sáng cho bọn nhóc trường Thày dòng chúng tôi. Bà có món xôi chả (xôi đậu rất mềm, chả tôm “rán” nóng ăn ròn tan) ngon hết sảy, có thể nói là độc nhất vô nhị. Tôi dám nói như thế là bởi vì sau này, có dịp đi hầu khắp đất nước Việt Nam, tôi không thấy đâu có cái món xôi chả thơm ngon tuyệt cú mèo này. Ông Hoành hình như xưa là tu xuất, người dỏng cao, dáng đi liêu xiêu, răng đen cải mả và hơi vẩu, lúc nào cũng đội khăn đóng, áo dài bằng vải láng cũ xác, quần cháo lòng, đen đủi xấu trai và hình như suốt năm chỉ tắm có một lần vào dịp tất niên, nhưng ông có lẽ là người am hiểu plain chant nhất Phát Diệm, hằng tuần thường tới dạy học trò trường Thày dòng chúng tôi hát. Ông vốn hiền lành nhưng cục tính, bộ dạng có nhiều phần khác người nên thường bị bọn học trò tinh nghịch chúng tôi trêu chọc, quấy phá. Cứ mỗi lần như vậy ông cầm cây thước kẻ bảng dùng để đánh nhịp vừa đuổi đánh vừa la: “Chúng mày hỗn quá, đồ mất dạy, tao đánh bỏ mẹ chúng mày bây giờ!” Nghề chính thức của ông là viết các sách hát plain chant cho các ca đoàn. Những sách hát này rất lớn, đều có bìa cứng khổ rộng trung bình 20’ x 25’, một người vác nặng, được đặt trên giá cao cho toàn thể ca đoàn có thể nhìn thấy mà hát . Tôi thường tới nhà ông ăn xôi chả và và rất thích xem ông viết sách hát. Trong căn nhà bé nhỏ bề bộn những bìa, những giấy, bút mực và sách hát, ông cặm cụi vừa viết bằng một cây bút lớn bằng tre ông tự chế vừa lẩm nhẩm hát theo những lời và dấu nhạc ông đương viết trên giấy. Ông viết rất nhanh, tuy nhiên dấu nhạc cũng như chữ ông viết rất đều và đẹp chẳng khác gì in. Trong kho chứa sách hát của xứ Phát Diệm tôi thấy có hằng trăm cuốn sách hát viết tay, cuốn nào cuốn nấy nặng năm, sáu ký, đều do một mình ông Hoành đen viết. Chẳng những ông viết cho xứ Phát Diệm mà các xứ khác trong giáo-phận cũng đều tới nhờ ông viết với một số tiền thù lao thực nhẹ nhàng. Do đó, cũng như món xôi chả độc đáo của bà Hoành, mặc dầu nắm trong tay một cái nghề có thể nói là độc nhất vô nhị, ông suốt đời vẫn rất nghèo. 
 
Bác Hoành ơi, khi tôi viết những dòng này, chắc chẳng còn mấy ai nhớ tới bác, nhưng riêng tôi, chẳng những nhớ bác mà còn hết sức quý mến tính tình và tài riêng hiếm có của bác, một con người Phát Diệm chính tông, hình như cả đời chưa bao giờ đi xe lửa hoặc xe hơi, chưa bao giờ có dịp trông thấy núi Thúy Sơn (Ninh bình) hay hồ Hoàn Kiếm, tuy có tài, nhưng không khoe khoang, không tham vọng, sống đơn sơ, nhẫn nhục và hiền-hòa như con trâu cầy trên đồng ruộng đất Kim Sơn. 
 
Đã nói nhiều tới hội hát Phát Diệm thì không thể nào không nói tới hội “kèn tây” Phát Diệm. Tuy cũng là một hội nhạc nhưng không hiểu sao hội “kèn tây” không được coi trọng như hội hát. Có lẽ vì trên phương diện phụng vụ, hội hát đóng một vai trò quan-trọng hơn. Thường vào những dịp lễ lớn người ta mới thấy sự tham dự của hội kèn, nhưng hội kèn không được vào trong nhà thờ , chỉ được đứng hoặc ngồi tại tiền đình nhà thờ mà thôi. Có lẽ vì người ta sợ tiếng kèn tiếng trống quá ồn ào chăng. Vì có sự bên khinh bên trọng như vậy nên giữa hai hội dường như có sự kình địch nhau. Tôi không rõ ông chánh Trọng, hội trưởng hội kèn Phát Diệm, ngày xưa quen chơi loại nhạc khí nào, nhưng ngoài vai trò điều khiển đội kèn ông còn giữ trọng trách huấn luyện các nhạc công nữa. Xem như vậy, ông hẳn phải có kiến-thức khá về âm-nhạc, nhưng tôi cũng không rõ ông học nhạc từ đâu. Anh Vọng, con trai ông, chơi clarinette khá nhất vùng. Năm 1954, hầu như dân toàn vùng Kim Sơn bỏ làng nước vô Nam tìm đời sống tự do, các hội kèn, hội hát đều bị khai tử. Cho mãi tới năm ngoái, nhân dịp lễ kỷ niệm 100 thành lập giáo-phận, không hiểu từ đâu và tại sao người ta lại có thể đào quật lên được trên 30 chiếc kèn đồng méo bẹp và dỉ sét để rồi ra công tập luyện và hồi sinh đội kèn đồng xứ Phát Diệm đã tất tưởi chết cách đây gần 50 năm. Tôi đã hết sức xúc động khi được nghe hội kèn vừa mới được hồi sinh chơi trong buổi lề kỷ niệm 100 thành lập giáo-phận, mặc dầu về nhân sự cũng như tài năng và nhạc cụ, hội kèn mới ngày nay kém ngày xưa rất nhiều. 
 
Với bối cảnh nói trên đây, nếu như nói người Phát Diệm ai cũng biết hát hoặc có khiếu về âm nhạc cũng không phải là ngoa hoặc quá đáng, nhất là khi người ta nhận thấy Phát Diệm, tuy chỉ là một khu thị tứ nhỏ bé miền đồng biển quê mùa, đã sản xuất được một số nhạc gia và nhạc sĩ nổi tiếng. Có nhiều gia đình cả nhà đều biết nhạc biết đàn. Ngoài ra, theo như hiểu biết của riêng tôi, có lẽ những bản nhạc đạo lời Việt Nam đầu tiên được soạn ra bởi người Phát Diệm, trước rất xa phong trào nhạc mới Việt Nam ngày nay. 
 
Thực vậy, vào khoảng trước Thế Chiến I, tức là chừng trên 80 năm trước đây, người Phát Diệm đã có sáng kiến đặt những bài hát đạo V.N. đầu tiên theo các điệu nhạc cổ truyền như Lưu thủy, Bình bán, Tứ Đại Cảnh, hát Nói, cung Sử, v.v. Tiếp đến là những bài lời Việt theo điệu các bài thánh ca La-tinh hoặc Pháp. Vì thời đó Giáo hội chưa cho phép xử dụng những bài hát tiếng Việt trong các Thánh lễ nên những bài hát đầu tiên này thường chỉ là những bài hát về Đức Mẹ được xử dụng trong mùa dâng hoa tháng Năm, quen được gọi là những bài vãn hoa. 
 
Chừng mấy tháng trước mùa dâng hoa tháng Năm (dương lịch), các bà trùm các ca đoàn (gồm các thiếu nữ có giọng ca tốt) thi nhau tìm những thày đàn, thày ca nổi tiếng trong vùng để mời tới dạy ca đoàn của mình hát vãn. Chính vì muốn có sự độc đáo và tình trạng thi đua giữa các ca đoàn hát vãn dâng hoa nên mỗi năm người ta phải cố gắng tìm những điệu nhạc lạ và hay để đặt lời ca tiếng Việt. Vào khoảng cuối thập niên 10, ca đoàn họ Lưu Phương do bà Nghị Hổ làm trùm là ca đoàn xuất sắc nhất vì chẳng những hát đã hay mà lại còn có nhiều bài vãn mới lạ nữa. Chính vì thế mà vào dịp rước và dâng hoa cho toàn hạt Kim Sơn, gọi là rước hoa Thanh ký (?), ca đoàn họ Lưu Phương được chọn làm đại diện cho toàn hạt hát vãn dâng hoa. Mẹ tôi lúc đó mới 14, 15 tuổi, cùng với bà thơ Xứng là hai giọng ca hay nhất trong ca đoàn. Ca đoàn có hai thày dạy hát nổi tiếng nhất vùng: Ông cửu Diễm (thân phụ của cố G.s. Lê Ngọc Huỳnh (Chu Văn An) và anh Lê Hữu Mục) là ông thày chuyên về lối hát cổ truyền, ông bộ Thọ chuyên đặt lời ca Việt cho những bài thánh ca Pháp. Cụ cửu Diễm là một trong ba người tài hoa nhất Phát Diệm thời đó. Hai người kia là cụ cửu Uy và ông ngoại tôi, tức cụ cửu Quắc. Mặc dầu trong kỳ thi Hương khóa cuối cùng trường Nam không vị nào lọt tam trường nhưng văn chương, ca nhạc, hội họa, cái gì các cụ cũng hay cả. Gần đây có chuyện tranh cãi về tác-giả của bài ca “Vui đâu bằng nơi Phát Diệm” có người nói tác giả là cụ cửu Uy, hai anh em Lê Hữu Mục và Lê Đình Ngân thì cho là thân phụ các anh mới đích thực là tác-giả của bài hát theo điệu Tứ Đại Cảnh trên đây. Cứ công bình mà nói, căn cứ vào lời văn, cũng như điều tai nghe mắt thấy của tôi về vấn đề này, ông cửu Uy mới đích thực là tác giả. Nhân tiện tôi cũng muốn xin thưa với anh Lê Hữu Mục là những chi tiết anh đưa ra để chứng minh đều không mấy xác thực. Chẳng hạn như Đức Cha Tiên-khởi VN Nguyễn Bá Tòng được phong chức tại Roma rồi về trọng nhậm Phát Diệm từ 1933 chứ không phải 1935, và ngày xưa, vào thời Pháp thuộc, người ta gọi quan đầu tỉnh người Pháp ở hai xứ bảo-hộ Bắc-kỳ (Protectorat du Tonkin) và Trung-kỳ (Protectorat de l’Annam) là công-sứ (résident de France) hoặc đơn giản là ông sứ hay quan sứ. Tôi không rõ công-sứ Ninh Bình lúc đó là ai, nhưng chắc chắn không có công-sứ nào tên là Châtel cả mà chỉ có thống-sứ (resident supérieur) của Bắc-kỳ lúc đó là Yves Châtel mà thôi. Và mỗi khi thống-sứ hay toàn-quyền về Phát-diệm, đầu tiên là thống sứ Châtel, sau đó mấy năm là thống sứ Tholance, rồi tới hai toàn quyền Catroux và Decoux, cả tỉnh phải cờ quạt kèn trống cùng với các quan trong tỉnh từ công-sứ, tuần phủ, giám binh và quân lính túc trực từ sáng sớm tại nhà thờ Phát Diệm để đón rước thực linh-đình. Riêng học-trò trường thày dòng chúng tôi phải tập hát, múa “bài bông” (?) và thể-thao tập-thể (mouvement ensemble) để chào mừng từ mấy tháng trước. Châtel người cao lớn, thường mặc “soóc,” đội mũ casque trắng kiểu Bảo-đại, tay cầm “can,” bộ điệu rất hách dịch, thích đi cắt băng các hội chợ và múa xoè do các thiếu-nữ người Thái trình diễn (người ta đồn Châtel đặc-biệt thích gái Thái). Khi nào có dịp gặp anh, tôi sẽ trình bày vấn đề này với anh nhiều hơn.
 
Hơn nữa, anh Mục ơi, lời ca của của bài “Vui đâu bằng nơi Phát Diệm” rất xoàng, và theo như tôi được biết, văn chương của cụ Cửu nhà đâu có đến nỗi tầm thường như vậy? Có lẽ, như anh đã nói, để cho dễ hát, cụ Cửu nhà đã chỉ sửa chữ “xứ” thành chữ “nơi” trong câu đầu của bài hát mà thôi.
 
Cụ cửu Uy vốn nổi tiếng vẽ và viết chữ đại tự đẹp (chữ cụ đẹp thiệt nhưng quá chân phương). Về phương diện âm nhạc cụ chỉ để lại có bài “Vui đâu bằng nơi Phát Diệm” theo điệu tứ đại cảnh vừa được nói ở trên mà thôi. Tuy lời lẽ tầm thường nhưng vì đề tài là ca tụng Phát Diệm nên tới nay, sau hơn 60 năm, nhiều người PD vẫn còn nhớ. Ông ngoại tôi, cụ cửu Quắc, có lẽ là con người tài tử nhất trong ba nhân vật kể trên, tính tình phóng khoáng, có kiến thức, nhưng cũng rất chịu chơi, đánh trống cô đầu thiệt là hay (mấy đứa con cháu như chúng tôi mà biết đánh trống cô đầu cũng là nhờ cụ chỉ dạy), cách đây hơn 80 năm, dám gửi con gái (tức thân mẫu tôi) lên tỉnh trọ học chữ quốc ngữ và chữ Pháp, về già cụ làm thày lang rất mát tay. Nhưng có lẽ vì dè dặt hoặc khiêm tốn sao đó, ông ngoại tôi rất hà tiện chữ-nghĩa, chỉ để lại vài bài hát nói, bài thơ di-chúc thiệt cảm động có tính cách như một bài kệ cụ viết theo thể lục bát để lại cho con cháu khi sắp qua đời và bài ca hội Yến lão làng Văn hải theo điệu Cung Sử mà thôi.
 
Sau đây tôi xin tiếp tục trở lại vấn đề vãn dâng hoa tại Phát diệm ngày xưa.
 
Tôi không rõ tục rước và dâng hoa Đức Mẹ bắt đầu có từ bao giờ, có lẽ từ thời cụ Sáu (Khâm sai Trần Lục), tức cuối thế kỷ 19. Tôi chỉ nhớ là trong suốt tháng Năm dương lịch, vào ba ngày thứ ba, thứ năm và thứ bảy trong tuần, 12 họ đạo thuộc xứ Phát Diệm lần lượt thay phiên nhau rước kiệu hoa vào nhà thờ lớn chính tòa để dâng lên Đức Mẹ. Kiệu hoa được trang hoàng bằng những loại hoa mùa hạ rực rỡ, trên có bày tượng Đức Mẹ và hai bình hoa lớn, thường là huệ trắng hoặc hoa sen. Đám rước có đủ cờ, trống, bát âm, kèn tây. Các quan viên và chức sắc trong họ đi trước dẫn kiệu (đàn ông mặc áo thụng xanh, đàn bà mặc áo vóc hoặc gấm màu đỏ chót). Cái đinh của buổi rước và dâng hoa tất nhiên là ca đoàn hát vãn dâng hoa. Thành công hay thất bại là ở điểm này. Cho nên, bao nhiêu cố gắng tìm bài hát mới, rồi tập tành suốt mấy tuần lễ chỉ có một mục đích là cho một ngày hôm nay mà thôi. Như tôi đã nói ở trên, không rõ ai đã là người Phát Diệm đầu tiên có sáng kiến đặt những bài hát đạo đầu tiên bằng tiếng Việt theo các điệu nhạc cổ truyền hoặc đặt lời Việt cho các bản thánh ca ngoại quốc (thường là Pháp). Tuy nhiên, phần lớn những bài mà mẹ tôi còn nhớ (năm nay cụ đã gần 100 tuổi) đều là do hai ông cửu Diễm (các điệu cổ truyền) và ông bộ Thọ (lời Việt điệu ngoại quốc hoặc chant grégorien) người họ Lưu-phương đặt. 
 
Kể từ những năm đầu thập niên 30, mẹ tôi làm trùm đoàn hát vãn họ Rosa ở Phố Ngoài Phát Diệm. Tất nhiên thày dạy hát là ông cụ tôi. Họ Rosa là họ nhỏ nhất trong xứ, nhưng nhờ có cha mẹ tôi, đoàn hát vãn dâng hoa họ Rosa bỗng nhiên nổi tiếng là đoàn hát vãn hay nhất trong xứ . Vì muốn có những bài hát mới lạ để tranh đua với các họ trong vùng, nên vào thời kỳ đó tôi thường thấy bố tôi thư từ đi lại với một ông cha ở một xứ miền Trung (hình như là Huế hay Nha Trang, tới nay tôi không nhớ rõ) tên gọi là Cha Nguyễn Văn Thích. Có một năm ông cụ tôi chán đặt lời ca vào các bài thánh ca ngoại quốc nên năm đó đoàn hát vãn họ Rosa đã hát một bài hát mà không một ai ở Phát Diệm biết xuất xứ ở đâu ra. Bởi vì, thưa quý vị, lời ca cũng như điệu nhạc hoàn toàn do bố tôi sáng tác. Chuyện sáng tác này bố tôi hoàn toàn giữ kín sợ các “Đấng Bề Trên” biết sinh chuyện nên thường ỡm ờ nói đó là điệu nhạc của một bài hát đạo “Tàu” (!). Năm đó hình như Đức Cha Việt Nam Tiên khởi Nguyễn Bá Tòng vừa mới về trọng nhậm cai quản Địa phận Phát Diệm, và tôi lúc mới chừng bảy tuổi mà thôi. Vào khoảng ba, bốn năm sau đó, sau một chuyến đi chơi Hà Nội, bố tôi hý hửng mang về một bản nhạc Việt viết tay khoe với mẹ tôi. Bố tôi cho biết bài hát này hoàn-toàn Việt Nam với cái tên là “Tiếng đàn” do một người tên là Lê Thương vừa mới đặt ra. Mẹ tôi trả lời: “Có gì lạ? Ông không nhớ là chính ông mấy năm trước đây cũng đã tự đặt bài hát hoàn toàn Việt nam đấy sao?” Bố tôi cụt hứng cố cãi: “Ừ nhỉ, phải đấy, nhưng của tôi là một bài vãn, chứ đâu có phải là bài hát như của người ta?” Mẹ tôi vẫn bình tĩnh hỏi lại: “Nếu như bài vãn không phải là bài hát thì là cái gì?” Bố tôi cố cù nhằng chống đỡ: “Thì tôi đã nói bài vãn là bài vãn, còn người ta thì là bài hát “đời,” khác nhau chứ.” Mẹ tôi tức quá gắt giọng: “ ‘Đời’ hay ‘không đời’ cũng vậy thôi, đều là bài hát cả, sao ông khùng quá vậy ông ơi!” Nghe các cụ cãi vã tôi không thể nhịn được cười, nhưng chịu là Mẹ tôi nói đúng quá và và rất lấy làm hãnh diện về ông bố của mình nên cũng xông vào vòng chiến la to: “Mẹ nói đúng đó, Bố sai rồi Bố ơi!” Bố tôi ậm ừ cười trừ để hòa cả làng. Có chuyện phân biệt bài vãn với bài hát là bởi vì thời đó chỉ có những bài hát bằng tiếng Pháp hoặc La-tinh mới được phép dùng để hát trong các lễ-nghi chính-thức của Giáo-hội. Buổi đầu các bài hát đặt lời Việt chỉ dùng để hát vào dịp dâng hoa Đức Mẹ, và được gọi là vãn để phân biệt với các bài hát Pháp hoặc La-tinh trong các thánh lễ. Sự phân biệt tôn ty này có lẽ cũng tương tự như gọi mấy ông cha Tây là Cố, các cha Nam thì gọi là Cụ. Có lẽ bố tôi có chút mặc cảm tự ty về bài vãn nên mới có vụ cãi vã dớ dẩn kể trên. Về sau mấy ông thày dạy hát vãn có sáng kiến đặt thêm những bài vãn kính Mình Thánh Chúa, mừng các Thánh v.v. Những bài vãn loại này thường chỉ được hát trong những buổi đọc kinh chung tại nhà thờ họ hay cùng lắm là trong những giờ chầu đêm mà thôi. Như tôi đã nói ở trên, người đặt lời Việt hay nhất Phát Diệm thời đó là ông Bộ Thọ thuộc họ Lưu Phương (ông là tu xuất, trước làm phòng-bộ (thơ-ký) cho Đức Cha, nên gọi là Bộ Thọ). Lời ca ông đặt tuy mộc mạc, đơn sơ nhưng rất nhẹ nhàng, tự nhiên và hợp với điệu nhạc một cách thiệt là khéo. Trong số các bài ông đặt lời Việt, tôi thích nhất bài vãn Thánh Giuse, lời ca thiệt dịu dàng và cảm động, tả cảnh Chúa ở cạnh Thánh Giuse lúc vị Thánh này sinh thì. Mỗi lần nghe Mẹ tôi hát bài này, tôi xúc động tưởng như muốn rơi nước mắt. Riêng về vãn dâng hoa, tôi thích nhất bản theo điệu bài hát la-tinh “Salve Mater misericordieo”và bản “Vãn dâng hoa hội Thanh ký.” Cả hai đều do ông bộ Thọ đặt lời ca. 
 
Năm 1936, nhân dịp Đại-hội Thanh Niên Công Giáo toàn quốc tại Nam Định, Giám-mục tiên-khởi Việt Nam Nguyễn Bá Tòng đã đặt bài hát mừng Các Thánh Tử Đạo Việt Nam đầu tiên để hát trong buổi lễ bế mạc đại-hội tại bãi Bảy Mẫu, nơi thời xưa các quan theo lệnh vua xử trảm những người theo Gia-tô giáo. Nhạc điệu bài này không rõ chính Đức Cha soạn, hoặc theo điệu một bài hát đạo Pháp nào, cho tới nay tôi vẫn chưa rõ. Người ta thường khen Đức Cha Tòng có tài hùng biện, diễn thuyết và viết văn Tây hay. Thực ra Đức Cha giảng và viết tiếng Việt cũng hay lắm. Riêng bài hát mừng các Thánh Tử-đạo VN của ông thiệt là xuất sắc. Đã trên 60 năm rồi, bài hát bị mai một. Riêng tôi, tôi chỉ nhớ lõm bõm mấy câu đầu như sau:
 
Á Thánh Việt Nam
Nay đã được về nơi hiển vinh
Hãy nhớ đoàn con
Đầy nơi khốn cùng 
Là biển thế gian.
Á Thánh Việt Nam . .
 
Các nét nhạc trầm hùng rất thích hợp với lời ca có tính cách bi tráng trên đây. Không hiểu tại sao, mỗi khi tôi nghe bản hợp ca “Chorus of the Hebrew slaves” trong vở nhạc-kịch Nabucco (Giuseppe Verdi) tôi bỗng liên-tưởng tới Đức Cha Tiên-khởi và bản nhạc kính các Thánh Tử đạo Việt Nam tôi vừa nói trên đây. Có lẽ vì hai bản nhạc này có những nét nhạc phảng phất giống nhau. Vị nào còn nhớ bản nhạc này xin vui lòng cho kẻ viết bài này được biết để ghi lại và lưu trữ về sau. 
 
Vì luôn dược sống thấm nhuần trong một thế-giới sớm chiều chan hoà lời ca tiếng hát cùng đàn địch kèn trống sênh sang, nên người dân Phát Diệm khi cầu kinh cũng lên bổng xuống trầm và nhịp nhàng như ca hát. Có một diều rất lạ và đặc biệt là vào mùa Thương, còn được gọi là Mùa Chay, tức mùa lễ tưởng niệm Chúa chịu chết để cứu chuộc loài người (thời gian 40 ngày trước lễ Phục-sinh) giọng đọc kinh của họ bỗng trở nên buồn buồn. Sau này, tôi để ý mới khám phá ra là giọng đọc kinh của họ bình thường theo cung cách major, nhưng sang mùa Thương, để cho hợp với hoàn cảnh bi thương lúc đó, họ đã vô tình biến giọng đọc kinh của họ sang cung cách minor một cách tự nhiên mặc dầu họ không hề biết gì về luật hòa-âm. 
 
Nhân tiện nhắc tới Tuần Thánh, tôi muốn trình bày sơ qua về lối hát tuồng Thương Khó, tức tuồng do chính dân gian diễn lại việc Chúa chịu nạn (Passion) trong khuôn viên nhà thờ vào mùa lễ Phục-sinh (Easter) tại Phát Diệm ngày xưa. Tuồng này do cha Trần Lục sáng tác vào mấy năm cuối cùng thế-kỷ 19. Không biết Cha Sáu có biết lối diễn tuồng Thương khó do chính dân gian diễn 10 năm một lần tại Oberammergau (Đức) hay không, nhưng trên nguyên tác thì tuồng Phát Diệm cũng giống tuồng Oberammergau nghĩa là do chính dân gian diễn xuất, khác là ở chỗ Phát Diệm dùng tuồng để làm phương tiện phụng vụ, lại không có đầy đủ phương tiện, kỹ thuật và nhân sự, chỉ được diễn vào hai buổi chiều thứ sáu và thứ bảy tuần Thánh, lấy khuôn viên nhà thờ làm sân khấu, trong khi Oberammergau là một công trình nghệ-thuật lớn được chuẩn bị về mọi mặt trong một thời gian kéo dài tới 10 năm. Có điều đặc biệt là tuồng Thương khó Phát Diệm được Việt Nam hóa hoàn toàn, chẳng hạn như về y-phục, “quân dữ” (tức lính La-mã) thì đội nón dấu và mặc quần áo theo kiểu lính thú V.N. đời xưa chứ không phải kiểu lính La-mã, các tông đồ của Chúa thì mặc áo thụng nhiễu màu xanh hay tím, khi táng xác, mọi người đội khăn trắng để tang, v.v. Có điều đặc biệt khác nữa là hết thảy các vai đều do đàn ông đóng. Vào mấy năm cuối (đầu thế-kỷ 20) vai Đức Mẹ được một người quen gọi là ông Phó Văn đóng một cách rất xuất sắc. Khi ông ngâm khóc dưới chân thánh giá, hết thảy mọi người đều xúc động, có nhiều bà đã òa lên khóc theo. Đối thoại do chính Cha Trần Lục viết, được các diễn viên ngâm với những giọng điệu rất bi thảm. Tuy cũng chỉ là một lối ngâm ngẫu hứng nhưng rất lạ vì không dựa hoặc phỏng theo một điệu nhạc nào sẵn có. Hơn nữa lối ngâm mới này (hay nói là hát cũng được) phát xuất một cách chân-thành từ những tâm hồn chất phác hoàn toàn Việt Nam nên vô hình chung đã có thể tạo cho người nghe cảm thấy một cái gì thực thấm thía, thực quen thuộc, hoặc nói một cách khác, thực Việt Nam. Phải chăng đó là sự biểu hiện rất tự nhiên trung-thành và chân thực của tinh thần dân-tộc vốn tiềm tàng trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam chúng ta. Theo tôi nghĩ, không những là về phương diện tôn giáo mà thôi, mà cả về phương diện văn chương cũng như âm nhạc, đây quả thực là một công trình sáng tác tập thể rất độc đáo của dân gian, đáng được dành một chỗ đứng trong lịch sử âm nhạc và kịch nghệ VN hiện đại cũng như đáng được chúng ta để ý nghiên cứu và phục hồi, nếu có thể. Riêng tôi, tôi rất mong có dịp được trình bày với công chúng những gì tôi biết được về công trình nghệ-thuật có tính cách dân-gian rất độc đáo này.
 

(Còn tiếp)

Nguồn: https://www.diendantheky.net/2020/12/son-diem-vu-ngoc-anh-cau-chuyen-am-nhac.html

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây