Tuấn Thảo
11/7/2014
Paso doble xuất phát từ Tây Ban Nha, nhưng hình thức điệu nhảy lại do các vũ sư người Pháp hoàn chỉnh – DR
Khi nhắc tới trường phái âm nhạc, cả hai thể điệu tango và paso doble đều được xếp vào dòng nhạc La Tinh nói chung. Nhưng khi nói riêng về khiêu vũ, thì chỉ có paso doble mới nằm trong số 5 điệu nhảy La Tinh, cùng với samba, cha cha, jive và rumba. Điệu tango có một chỗ đứng riêng biệt và được xếp vào các điệu nhảy phổ thông cùng với quickstep, slowfox, valse theo cách phân định quốc tế.
Dòng nhạc paso doble (viết theo tiếng Anh hay tiếng Pháp là pasodoble) xuất phát từ vương quốc Tây Ban Nha, có từ thế kỷ XVIII, nhưng hình thức của điệu nhảy lại do người Pháp hoàn chỉnh vào đầu thế kỷ XX. Nhiều người cứ tưởng lầm rằng điệu paso doble ra đời cùng lúc với nghệ thuật đấu bò (corrida de toros, ban đầu có nghĩa là đua nhiều hơn là đấu). Thật ra, paso doble ra đời vào giữa thế kỷ XVIII dưới thời vua Charles III, trong khi nghệ thuật đấu bò lại xưa hơn nhiều, có từ vài thế kỷ trước.
Theo các nhà nghiên cứu, rất khó thể nào mà khẳng định một cách chính xác thời điểm ra đời của corrida, nhưng dựa vào sử sách và các vanư bản ghi chép lưu lại cho tới ngày nay, nghệ thụât đấu bò đã xuất hiện trong các vương triều Tây Ban Nha từ đầu thế kỷ IX (năm 815) dưới triều vua Alphonse II. Nghi thức đấu bò được ghi chép trong quyển biên niên sử năm 1124, dưới triều vua Alphonse VII.
Phổ biến trong dân gian, nhịp điệu này ban đầu giống hệt như một khúc hành quân, các bước nhảy đều đặn như một cuộc tuần hành diễu binh, vì thế mới có tên gọi là ‘’bước đôi’’, chứ không phải là “hai bước”. Nếu đơn thuần là hai bước, thì người Tây Ban Nha sẽ gọi đó là “dos pasos”. Còn biểu diễn nhảy đôi hay song diễn theo thuật ngữ khiêu vũ là “pas de deux” (paso a dos). Điệu nhảy lúc đầu rất đơn giản, dần dà trở nên công phu hơn khi được kết hợp thêm với các điệu vũ truyền thống của Tây Ban Nha như jota và seguidilla, cử chỉ và điệu bộ thì gợi hứng từ phong cách flamenco.
Mãi đến đầu thế kỷ XIX, paso doble mới bắt đầu được diễn trong các màn mở đầu giới thiệu các trận đấu bò. Nghi lễ này được gọi là paseo, qua đó hiệp sĩ đấu bò đi dạo một vòng khán đài để chào khán giả. Sự nhầm lẫn có lẽ xuất phát từ đó, tuy rằng trong tiếng Tây Ban Nha chữ paseo có nghĩa là đi dạo, trong khi chữ paso có nghĩa là bước chân.
Một sự nhầm lẫn khác đến từ chữ toreador. Người Pháp cũng như người Anh đều dùng chữ này khi nhắc tới hiệp sĩ đấu bò. Nhưng người Tây Ban Nha tuyệt đối không dùng chữ này mà lại gọi hiệp sĩ đấu bò là matador. Một sự khác biệt tuy nhỏ nhưng khi bạn dùng chữ toreador, thì cho dù điều đó không sai về mặt ngôn từ ngữ vựng, nhưng người Tây Ban Nha biết ngay là bạn không phải là dân bản xứ.
Dù gì đi nữa thì từ thế kỷ XIX trở đi, điệu nhạc paso doble thường được chơi trong phần mở màn các trận đấu bò. Đến đầu thế kỷ XX, bốn vũ sư người Pháp là Meyer, Hillion, David và Ronnaux mới hợp sức lại để hệ thống hóa các bước nhảy của điệu paso doble. Họ ấn định ra các bước cơ bản nhất trong điệu nhảy cặp, và gợi hứng từ nghệ thuật đấu bò để đặt tên cho các điệu bộ và động tác biến tấu từ các bước nhảy cơ bản.
Điều đó giải thích vì sao hầu hết các bước nhảy của paso doble đều mang tên tiếng Pháp : pas chassé, promenade, pivot, petit cheval, le huit, la cape, le carré … nhưng quan trọng hơn nữa là các hình tượng của nghệ thuật đấu bò mà các vũ sư người Pháp đã đưa thêm vào trong các bước căn bản để làm điểm nhấn, phá vỡ gián đoạn sự đơn điệu của địêu vũ.
Một khi được hoàn chỉnh, vũ điệu paso doble trở nên thịnh hành từ những năm 1920 trở đi và lưu truyền cho tới ngày nay thông qua các cuộc thi khiêu vũ quốc tế. Hầu hết các bản nhạc dành cho vũ điệu này đều ra đời cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, tiêu biểu nhất là bài España Cañí, nổi tiếng trên thế giới. Hiểu theo nghĩa là điệu nhảy du mục của Tây Ban Nha (Spanish Gipsy Dance), bài này ban đầu không có lời do nhạc sĩ Pascual Marquina Narro (1873-1948) sáng tác.
Phiên bản có lời ăn khách qua giọng ca của Manolo Escobar. Trước đó, các khúc hành quân như Marcha a la Manoleria, Suspiros de España hay Marche Cazérienne ra đời từ những năm 1900, nhnưg ít được ghi âm trên băng đĩa. Thời kỳ huy hoàng của máy vi âm và đĩa nhựa đánh dấu ngày đăng quang của các ca khúc như Viva España hay Sombreros et Mantilles hay ra đời từ cuối những năm 1930.
Sau hai thập niên thịnh hành, vũ điệu paso doble bắt đầu thoái trào trước sự trỗi dậy của các điệu khiêu vũ khác như tango, cha cha hay rumba (rumba chứ không phải là bolero). Mãi đến những năm 1990, đạo diễn người Úc Baz Luhrmann mới bắt đầu rủ bỏ lớp bụi thời gian khi cách tân điệu nhảy paso doble trong bộ phim ca nhạc Strictly Ballroom (vào năm 1992). Một khúc nhạc pasodoble được viết riêng cho bộ phim này. Vài năm sau đó, Richard Gere, Jennifer Lopez, Susan Sarandon làm sống lại các điệu nhảy cặp trong phim Shall We Dance.
Cũng từ đó mà các cuộc thi khiêu vũ quốc tế, cũng như các show ca nhạc, hay chương trình truyền hình thực tế như Khiêu Vũ với các Ngôi sao (Dancing with the Stars) mới bắt đầu hoà âm phối khí lại các bản nhạc pop nổi tiếng theo điệu paso doble, kể cả các bài hát của Adele, Madonna, Abba hay Joe Cocker … hầu thu hút những khán giả trẻ tuổi hơn, thay vì nhắm vào đối tượng trung niên hay cao niên.
Hình tượng của nghệ thuật đấu bò ngày càng mờ nhạt đi, điệu nhảy paso doble chỉ chủ yếu giữ lại ý nghĩa của sự đối chọi tương phản trong vạn vật, thường đi đôi gắn liền với nhau, khó thể tách rời. Các đôi nhảy cặp thường thể hiện sự yêu thương và hờn ghét, bóng tối và ánh sáng, sức sống và cõi chết, một vũ điệu dũng mãnh sinh động, dùng điệu bộ flamenco để tạo thêm nét cường điệu. Một điệu nhảy chẳng những chung nhịp bước đôi, mà còn song hành ‘‘nghịch đối’’.
Tuấn Thảo
Nguồn: http://www.viet.rfi.fr/van-hoa/20140711-pasodoble