Nguyễn Hiền
6/2007
{showalbum 778}
Một buổi chiều tháng năm đi làm về tôi được tin nhắn trong máy của một ông bạn già: “Cậu đến ngay nhà tôi xem hoa quỳnh nở nhá.” Ông bạn tôi có căn nhà thuê ở ven một thị trấn nhỏ. Trọn cả ngày nghỉ hưu, nếu ông không ngồi sau khung cửa kiếng, nhìn ra bãi cỏ trước nhà có lũ trẻ con chơi đùa không biết mệt thì chỉ dồn vào việc chăm sóc những chậu kiểng xếp hai hàng dọc ban-công, và những chậu phong lan treo lủng lẳng trên khung cửa. Thêm vào đó là ba chậu mà ông gọi là quỳnh. ‘Gọi là’ bởi vì thật tình tôi chưa thấy hoa quỳnh ngoài đời bao giờ. Ông bảo quỳnh thì tôi tin là quỳnh, nhưng khi cây không có hoa chỉ thấy nó giống một loại xương rồng nào đó, có những lá mập dài, ẻo lả. Mà cây quỳnh trổ hoa, theo ông thì rất hiếm, hơn nữa hoa chỉ nở được đúng ba ngày. Thành thử lúc nào đến chơi nhà ông tôi cũng thấy ba chậu đầy lá. Xin những bạn ở những xứ nóng đừng chế nhạo tôi, một người ở xứ rét triền miên, trong một căn nhà lúc nào cũng mờ ảo thiếu ánh mặt trời. Tôi chỉ quen vài cô gái tên Quỳnh và được xem ít tấm hình chụp hoa quỳnh của ông bạn già. Cho nên mới có chuyện. Tôi một lần đã bảo ông bạn: “Chừng nào quỳnh nở anh nhớ gọi em đến xem nhé.” Thế là chiều nay tôi đã đến kịp lúc. Để đón tôi, ông bạn đã bầy sẵn một mâm ‘cỗ’ đơn giản: một bát miến gà và một đĩa đậu phộng rang. Chỉ có thế. Một chai rượu Mai Quế Lộ lúc nào cũng dành sẵn cho tôi, một bình trà cho ông. Còn tôi, trước khi lên đường tôi cũng còn kịp nhớ ra đĩa CD Dạ Quỳnh Hương Phạm Anh Dũng mới gởi tặng, vội vàng cắp theo.
Quả là kịp lúc. Trên chiếc bàn nhỏ dưới khung cửa sổ thông gió, chậu quỳnh màu đỏ gạch terracotta được ông để trên một tấm lót trắng kết bằng những ngôi sao. Trang trọng. Từ một cánh lá trổ ra, đóa hoa đang mở. Những cánh hoa màu trắng phơn phớt vàng bắt đầu hiện rõ dần, lớn dần… cùng lúc buổi chiều âm u trong cơn mưa dầm, nay đang dần tối. Hoa nở nhanh, tưởng chừng nghe mơ hồ tiếng cựa mình của hoa, của lá. Cùng với mùi hương ngọt nhẹ thoảng trong không gian tĩnh lặng một buổi chiều ngoại ô thành phố. Tôi chúi mũi vào, hít. “Ấy ai lại ngửi thô tục như thế!”, ông trách nhẹ và ấn tôi vào chiếc ghế mây, bắt ngồi im. Thì ngồi im vậy. Khoảng không gian trong phòng như lắng xuống. Cho tới khi ông bạn nghiêng bình trà sen rót xuống hai chiếc ly sứ cổ, là lúc tôi đang ngây người mở to mắt nhìn bông hoa giờ đang vặn mình đón những giao thoa giữa đất với trời, như cô trinh nữ lần đầu tiên ưỡn người đón nhận ân sủng đời ban. Phải làm một cái gì chứ. Tôi để chiếc đĩa vào máy, giọng Bảo Yến chợt vút cao cùng với tiếng nhạc đệm mở rộng:
“…Rồi tình ta như trăng sáng ngát trên cao
Bầy chim uyên lao xao theo gió đêm về
Ngàn vì sao đua nhau thắp nến lung linh
Dòng sông đêm dâng lên tiếng hát long lanh…”
(Dạ Quỳnh Hương – Thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao)
Thật tuyệt. Bảo Yến chắc có duyên với Phạm Anh Dũng nên đĩa nào Dũng cũng cho cô hát nhiều bài. Hoặc giả Bảo Yến thể hiện tinh thần ‘Thơ anh làm em hát, tơ anh dệt em may…’ (Thoi Tơ – Thơ Nguyễn Bính) bằng cách: nhạc phu quân (Quốc Dũng) hòa âm thì dành ưu tiên đuợc hát. Tôi thích giọng Bảo Yến ở chỗ đã lột tả được những đoạn nhạc đang trầm lắng, bỗng đổi thể chợt vút lên cao, một dấu ấn đặc biệt mà ít người nhạc sĩ đã tạo được cho mình. Dấu ấn này người nghe có thể bắt gặp đâu đó trong rất nhiều nhạc phẩm của Phạm Anh Dũng. Như Tình Bỗng Khói Sương, Rực Vầng Trăng Khuyết, Chia Nửa Vầng Trăng…. Trong CD Dạ Quỳnh Hương có hai bài: Từ Anh Và Nhớ, Cánh Chiều, hay trong một nhạc phẩm Phạm Anh Dũng mới viết và giới thiệu trong một e-mail gửi đến đến bạn bè:
“…Quê hương ta!
Mùa xuân chim hót
Có mai vàng nở rộ bên sông…”
(Xuân Mong Anh Về – Thơ Trần Ngọc)
Trong Dạ Quỳnh Hương, con chim én quý đã cất giọng sáu lần. Thực sự, tôi thích nghe Nhã Phương hát hơn. Cả hai chị em khi hát nhạc Phạm Anh Dũng đều có lối diễn tả giống nhau, nhất là cách phát những âm ‘ơ’ và ‘iê’, nhưng cô chị Bảo Yến thường đem đến cho tôi có cảm giác như xem một đóa hoa nở ‘tòe loe’, phô cả cánh lẫn nhị, trong khi ở cô em Nhã Phương tôi cảm được một e ấp nào đó, nhưng rất mời gọi, rất gợi tình. Trong CD Dạ Quỳnh Hương, Nhã Phương chỉ xuất hiện một lần (phải chăng đây là một ước hẹn ngầm của Phạm Anh Dũng như trong những CD trước, hay vì bị cô chị giành hát hết?) qua một bài nhạc rất dễ thương trong thể điệu valse:
“…Suối tóc mây buông thả
Trên bờ vai thon gầy
Nắng hồng lên đôi má
Làm lòng ai ngất ngây…”
(Cô Bé Dễ Thương – Thơ Trần Ngọc)
Phạm Anh Dũng sở trường về valse. Nhất là khi giọng hát được hòa chung tiếng nhạc đệm rất vui của Quốc Dũng, có những tiếng sáo réo rắt đong đưa trong những chuyển đoạn, bài hát như mọc cánh. Bài Trẩy Nhánh Sương Mù (phổ thơ Phạm Ngọc) trong đĩa Tình Bỗng Khói Sương tôi nghe đã hơn 30 lần, hết Mỹ Tâm trong sáng, lại tới Xuân Thanh chải chuốt, và chắc chắn tôi sẽ còn nghe nhiều lần nữa. Cô Bé Dễ Thương không được may mắn như vậy, nếu ví với một bản nhạc khác trong CD Dạ Quỳnh Hương có lời cũng rất ‘dễ thương’ như cô bé:
“…Em đóa Quỳnh Thi
Sương thấm ướt hàng mi
Lung linh diệu ảo
Lệ đẫm sầu chia ly.”
(Quỳnh Thi – Thơ Vương Ngọc Long)
Tôi hỏi ông bạn già: “Anh có thấy gì lạ trong bản nhạc này không? Nhạc Việt ít có bản nào kết câu bằng vần ‘i’ như bản này.” Ông bạn ngẩn người ra, như tôi vừa ngẩn người ngắm hoa quỳnh lần đầu trong đời, nhưng sau khi ngẫm nghĩ lại cũng phải gật gù đồng ý với nhận xét này của tôi. Nghe nhạc Phạm Anh Dũng, tôi có thói quen thả cho đầu óc đi chơi vẩn vơ như vậy. Như có lần tôi chợt nhận ra là những người hát nhạc Phạm Anh Dũng thường hát mỗi bài hai lần từ đầu tới cuối, đây là điểm lạ, rất hay. Có thể vì mỗi bài thơ khi đã được phổ nhạc là một tác phẩm nghệ thuật không thể ngắt ra từng khúc. Mà hiện nay theo tôi Phạm Anh Dũng có lẽ là người đem tấm áo nhạc khoác lên nhiều bài thơ nhất.
Nhưng có phải vì vậy mà Phạm Anh Dũng sở trường về nhịp 3/4 qua những thể điệu Valse lả lướt hay Boston dịu dàng? Vì nhịp 3/4 thích hợp với những thể thơ vần điệu Việt Nam, từ thơ 4 chữ, 5 chữ, lục bát, thất ngôn cho đến thơ mới 8 chữ? Nhiều bản nhạc luân vũ của Phạm Anh Dũng với hòa âm vui tươi của Quốc Dũng có tiếng organ, sáo hay accordeon dẫn dắt đã giúp tôi những phút thư giãn sau những giờ căng thẳng do công việc. Như bản Từ Xa Em (trong CD Tình Bỗng Khói Sương) cũng là một bản luân vũ của Phạm Anh Dũng tôi rất thích vì hơi nhạc đi lạ hơn những bản valse thường nghe. Cũng có vài nhạc sĩ Việt sử dụng nhịp điệu valse cho sáng tác của mình (Ly Rượu Mừng chẳng hạn, là một bài valse nổi tiếng, ai cũng biết, của Phạm Đình Chương), nhưng số lượng nhạc trong thể điệu valse chắc không ai qua mặt được Phạm Anh Dũng. Còn nếu xét về thơ phổ nhạc điệu valse thì ta bắt buộc phải công nhận một điều là Phạm Anh Dũng đang ngự trên đỉnh cao chót vót. Có người đã gọi đùa Phạm Anh Dũng là Nhạc sĩ Luân vũ Quỳnh Hoa, xét kỹ quả không ngoa. Phạm Anh Dũng cho tới giờ đã có được trong gia sản nhạc không dưới mười bài về hoa quỳnh, gấp đôi gấp ba Trịnh Công Sơn. Còn tôi, tôi sẽ gọi Phạm Anh Dũng là Vua Luân Vũ, không phải vua trên sàn nhảy mà là Vua Luân Vũ Trên Năm Dòng Kẻ.
Có người cho rằng thơ lục bát, một thể thơ dễ phổ nhạc, lại ẩn tàng một cái bẫy nguy hiểm, là dễ mang tới sự trùng lặp. Nhưng năm bài lục bát trong CD Dạ Quỳnh Hương đã được phổ với các thể loại nhạc khác nhau, từ cổ điển (Nước Chảy Qua Cầu) đến vui tươi và rất mới (Từ Anh Và Nhớ). Trong bài Huế Buồn Chi, phần nhạc đệm đã được Quốc Dũng mang nhạc khí dân gian Việt Nam trải trên nền ngũ cung, tạo cho bài hát một vẻ cách riêng.
Để thoát khỏi cái khuôn thước nhạc phổ thơ lục bát ngày xưa, nhiều nhạc sĩ đã chọn phương thức thêm bớt chữ. Phạm Anh Dũng cũng không thể tạo ra một biệt lệ cho mình… Bài 15 Năm, vốn là thơ lục bát, nhưng có những đoạn đã biến thể, khi nghe tưởng như thơ mới:
“...Linh hồn nhỏ nỗi hoang liêu
Chân hoang mang bước phiêu diêu
Thời gian đếm bằng những giọt say
Tiếc nuối đan từng ngày hồi sinh…”
(Thơ Phạm Ngọc)
Trong một bài lục bát khác, ‘Em Đi Bỏ Lại Đời Nhau’, viết theo điệu Blues, ở chuyển đoạn giữa, Phạm Anh Dũng đã khéo léo chêm vào mỗi câu một chữ rất hay:
“...Em đi (sao) đời bỗng lặng thinh
Tường vôi một bóng (chỉ) riêng mình gọi nhau
Thôi thì (hãy) dỗ giấc chiêm bao
Nửa đêm tỉnh giấc (nghe) lá xào xạc rơi…”
(Thơ Phạm Ngọc)
Cũng như trong bài Nước Chảy Qua Cầu tôi rất ‘chịu’ khi thấy Phạm Anh Dũng đã vuốt thêm 4 chữ cuối vào mỗi đoạn, nghe như lời vọng về của một quá khứ đã đóng rêu:
“…Mai kia chạnh nhớ câu thề
Qua cầu nước chảy bốn bề vọng âm
… bốn bề vọng âm.”
(Thơ Hoàng Ngọc Quỳnh Giao)
CD Dạ Quỳnh Hương, theo như Phạm Anh Dũng cho biết, được thực hiện như một món quà tri âm dành cho Hoàng Ngọc Quỳnh Giao, một nữ sĩ tài hoa, văn thi nhạc họa có đủ, nhưng cuộc đời vắn số. Tuy vậy trong CD này chúng ta chỉ được nghe 2 bài nhạc phổ từ tập thơ Vàng Hương Mộng Ngọc của bà, là bài Nước Chảy Qua Cầu trên đây, và bài được lấy làm tên cho CD: Dạ Quỳnh Hương. Cả hai bài đều là những vần thơ rất đẹp, nhưng lại để cho người nghe niềm luyến tiếc, phải chi được nghe nhiều bài thơ phổ nhạc của Hoàng Ngọc Quỳnh Giao cho xứng với tên đĩa nhạc.
Trong CD này cũng có nhiều khúc thơ khác rất hay, viết cho tuổi trẻ mộng mơ:
“...Mưa Hà Nội, mưa giăng giăng lạnh vắng
Nhìn mưa rơi bé dệt mộng thần tiên
Bên xứ lạ anh vẫn còn vương vấn
Má đồng tiền và mưa mãi triền miên.’
(Hà Nội Mưa Bay – Thơ Trần Ngọc)
hay mang một thi phong cổ kính:
“…Này cô em gái
Tuổi vừa chín tới
Tóc mây bờ vai
Bên song cô thả
Sợi nhớ sợi thương
Mơ chuyện đá vàng...”
(Dậy Thì – Thơ Hồng Khắc Kim Mai)
cho tới rất mạnh và huyền hoặc:
“...Cười lên em!
Khóc lên em!
Đâu trăng tình sử
Nếp áo trần duyên?
Cười lên em!
Khóc lên em!
Gót sen tố nữ
Xôn xao đêm huyền…”
(Gửi Người Dưới Mộ – Thơ Đinh Hùng)
hay những vần thơ bàng bạc buồn như trong bài Mai Anh Về:
“…Mai anh về mang giùm tôi nỗi nhớ
Gởi bâng khuâng theo sóng nước bềnh bồng
Chuyện ngày xưa theo gió cuốn trôi mau
Để ngậm ngùi thương buồn nhớ tình xa!”
(Thơ Huỳnh Nguyễn Thanh Tâm)
Bài thơ này và bài Nước Chảy Qua Cầu đã làm tôi đắn đo rất lâu trong một chọn lựa xem bài thơ nào tôi ‘cảm’ nhất trong CD Dạ Quỳnh Hương. Cuối cùng tôi đã chọn Mai Anh Về. Tại sao? Chỉ có thể trả lời bằng sự cảm nhận, thế thôi.
Nhưng bản nhạc tôi chấm hay nhất trong CD Dạ Quỳnh Hương là bản cuối cùng: Gửi Người Dưới Mộ. Tôi đoán Phạm Anh Dũng đã chịu (tôi dùng chữ ‘chịu’ thay vì ‘phải’) bỏ rất nhiều thời gian để phổ nhạc bài này. Bài thơ nguyên thủy đã khó với nhiều đoạn trúc trắc, câu thơ chỗ ngắn chỗ dài, thế nhưng mỗi đoạn thơ đã được Phạm Anh Dũng chọn cho một thể loại nhạc thích hợp, và dùng nhịp 4/4 xen kẽ nhịp 3/4 để có thể diễn tả tất cả mọi tâm trạng của một người nhớ đến người yêu đã nằm dưới lòng đất: khi thì buồn, khi thì bí ẩn; khi man rợ (xin mạn phép mượn từ này của cố thi sĩ Đinh Hùng), lúc êm ái. Mỗi khi nghe bài này tự dưng tôi nhớ đến Đóa Hoa Vô Thường của Trịnh Công Sơn, một bản nhạc tôi rất thích cũng chính vì cấu trúc nhạc như đã nói ở trên. Gửi Người Dưới Mộ, một tiểu trường ca dài 6 phút, theo tôi thật xứng đáng để kết cho một CD có độ dài kỷ lục gần 80 phút, với 17 bản nhạc phổ từ những bài thơ hay của 10 thi sĩ trong đó có 5 người mang chữ ‘Ngọc’ trong tên.
Nếu có người hỏi tôi còn điều gì không ưng ý sau khi nghe CD này, tôi sẵn lòng trả lời: đó là tiếng mưa rơi để chấm dứt bài Hà Nội Mưa Bay nghe rất giống nhiễu âm, làm giảm một phần giá trị của bài thơ đẹp từ câu đầu tới câu cuối, với tiếng Hobo dẫn lời hát; và Hạnh Nguyên hát bài Quỳnh Thi vấp ngay câu thứ tư, như người vừa ăn miếng cơm chợt cắn trúng hạt sạn. Dù nhỏ, nhưng cũng là hạt sạn.
Còn ông bạn tôi. Trước khi ra về, tôi xin ông một nhận xét chung khi nghe CD này, ông chỉ nói ngắn gọn: “Hay lắm, nhưng tiếc là chỉ có hai bài về hoa quỳnh.” Biết ông có những sở thích không chung với mình, tôi cũng chỉ đáp lại một cách đùa giỡn: “Để em sẽ tìm thâu cho anh đủ 10 bản Quỳnh Hoa của Phạm Anh Dũng cho anh nghe mỗi khi hoa nở.” Tưởng nói đùa, ai ngờ tối hôm sau ông lại gọi vào máy: “Mấy bài hát cậu hứa đâu rồi, thâu xong chưa, để hoa quỳnh tàn hết lại phải chờ không biết tới chừng nào.”
Nguyễn Hiền
6/2007
Nguồn: http://my.opera.com/phamanhdung1/blog/2011/08/06/cd-da-quynh-huong