Nguyễn Đình Đăng
Tokyo 12/5/2012
Trời đổ mưa sau recital của Ivo Pogorelich đêm 9/5 vừa qua tại Suntory Hall ở Tokyo. Trên đường từ phòng hoà nhạc ra ga tầu điện ngầm, tôi vô tình đi sau hai nữ khán giả đứng tuổi. Người phụ nữ châu Âu cất giọng nói to với bà bạn Nhật của mình như để người đi quanh cũng nghe thấy:
– Bùm, bùm..! Không, đó không phải “gu” piano của tôi!
*
Trong tour diễn tại Nhật lần này, Ivo Pogorelich trình tấu ở 3 thành phố: Kanazawa, Nagoya, và Tokyo. Hai buổi diễn ở Tokyo đều tại Đại khán phòng Suntory Hall. Phòng hoà nhạc này (khai trương năm 1986) là một trong 7 phòng hoà nhạc hạng nhất thế giới được thiết kế theo kiểu vườn nho, với 2006 chỗ ngồi vây quanh sân khấu, sau Berliner Philharmonie (2440 chỗ), Walt Disney Concert Hall tại Los Angeles (2265 chỗ), và Sapporo Concert Hall (2008 chỗ). Nhạc trưởng huyền thoại người Đức Herbert Von Karajan từng gọi Suntory Hall là “hộp trang sức của âm thanh“. Người sáng lập và bỏ tiền ra xây dựng Suntory Hall là nhà tư bản đồng thời là người mê nhạc cổ điển, ông Keizo Saji (1919-1999) – chủ hãng rượu whiskey Suntory.
Trong đêm diễn đầu (7/5), Pogorelich chơi 2 concertos cho piano của Chopin cùng dàn nhạc giao hưởng (DNGH) Sinfonia Varsovia dưới sự chỉ huy của nhạc trưởng Nhật Kazufumi Yamashita. Đêm thứ hai (9/5) là recital. Pogorelich độc tấu sonata “Hành khúc tang lễ” (Op. 35 No. 2 cung Si giáng thứ), nocturne Op. 48 No. 1 (cung Đô thứ) của Chopin, Mephisto Waltz No. 1 S. 514 và piano sonata cung Si thứ S. 178 của Liszt. Tôi đã đặt vé nghe cả hai buổi diễn từ cuối tháng 3. Té ra tôi đã quá lo xa: Tới trước giờ diễn phòng bán vé vẫn mở. Đại khán phòng Suntory Hall vẫn còn khoảng nửa số ghế bỏ trống trong cả hai buổi diễn.
Dù sao đặt chỗ trước vẫn có cái lợi là được vé rẻ mà chỗ lại tốt. Tôi ngồi hàng thứ tư sau dàn nhạc, phía pianist nên nhìn rõ hai bàn tay của Pogorelich. Một số bài báo từng mô tả rằng các buổi hòa nhạc của Pogorelich thường diễn ra khá kỳ quái ngay từ hình thức. Nào là ông yêu cầu tắt hết đèn, chỉ có hai bàn tay ông là được chiếu sáng, nào là ông từng mắng khán giả khi họ làm ồn, v.v. Giờ đây tôi được thực mục sở thị. Vừa bước vào phòng hoà nhạc nửa giờ trước khi buổi biểu diễn bắt đầu, tôi thấy chính maestro Ivo Pogorelich, đầu đội mũ len, mình vận bộ đồ thể thao, chân xỏ dép lê, ngồi trước cây grand piano Steinway đặt chính giữa sân khấu, đang tập rất chậm những đoạn nhạc từ các tác phẩm ông sẽ trình diễn. Ông chơi rất khẽ, như tìm kiếm âm thanh. Có lúc ông chơi một nốt, rồi nghiêng đầu lắng nghe âm cộng hưởng trong khán phòng. Thỉnh thoảng ông đưa cặp mắt đờ đẫn liếc nhìn khán giả đang lục tục đi vào chỗ ngồi. Chốc chốc ông lại thò tay xuống sàn lấy bình nước khoáng, mở nút, rồi một tay vẫn tiếp tục chơi đàn, tay kia đưa bình lên miệng uống. 10 phút trước lúc buổi diễn bắt đầu, và chỉ sau khi một nữ nhân viên Kajimoto Music – hãng tổ chức biểu diễn nhạc cổ điển – ra nhắc tới lần thứ hai, ông mời chịu đứng lên, uể oải đi vào trong cánh gà.
*
Ivo Pogorelich xuất hiện như một ngôi sao chổi sáng chói trên bầu trời âm nhạc cổ điển cách đây hơn 3 thập kỷ. Năm 1980 tại cuộc thi piano quốc tế mang tên Chopin lần thứ X ở Warsaw, lối trình diễn Chopin của chàng trai 22 tuổi người Nam Tư này đã khiến tranh cãi nổ ra trong hội đồng giám khảo. Sau khi Pogorelich bị loại khỏi vòng chung kết, nghệ sĩ piano Martha Argerich đã giận dữ bỏ hội đồng giám khảo ra về. Bà nói cảm thấy xấu hổ vì ngồi trong một hội đồng đã loại một thiên tài. Tiếp theo bà, một số giám khảo khác cũng tuyên bố rút khỏi hội đồng. Cuộc thi đã bị ngừng lại 48 tiếng đồng hồ, có nguy cơ phá sản, khiến chủ tịch hội đồng nhà nước Ba Lan phải trực tiếp can thiệp để thuyết phục các giám khảo kia ở lại. Có nguồn tin chưa được kiểm chứng cũng như một số biểu hiện cho thấy việc loại Pogorelich năm đó đã được đạo diễn bởi bàn tay của Moscow[1]. Tuy nhiên, cũng chính vì bị loại mà Pogorelich vụt trở thành nổi tiếng toàn thế giới. Hãng Deutsche Grammaphon uy tín đã ký hợp đồng thu âm với ông. Một năm sau, ông đã được mời biểu diễn ra mắt tại Carnegie Hall ở New York, rồi tại London. Từ đó ông đã lưu diễn độc tấu cũng như cùng các dàn nhạc hàng đầu thế giới, như DNGH Boston, DNGH London, DNGH Chicago, Vienna Philharmonic và Berlin Philharmonic. Dù sao, việc bị loại khỏi cuộc thi Chopin cách đây 32 năm có lẽ cũng là một trong hai nỗi đau lớn nhất đời ông. Tại cuộc họp báo ngay sau khi bị loại, ông nói: “Tôi đã tới đây là để khởi đầu một phương hướng mới trong trình diễn âm nhạc của Chopin.” Song, như ông đã thổ lộ sau này, việc bị loại đã gây cho ông một nỗi thất vọng lớn. Nỗi đau thứ hai, xảy ra khi vợ ông, Aliza Kezeradze, đồng thời từng là người thầy piano của ông, qua đời vào năm 1996, đã khiến ông rơi vào trạng thái trầm cảm, phải ngừng biểu diễn một số năm. Mặc dù vậy, Ivo Pogorelich vẫn nằm trong số những nghệ sĩ piano lừng danh nhất thế giới trong suốt 3 thập kỷ qua. Có người còn quả quyết rằng, sau khi nghe Pogorelich chơi, nghệ sĩ piano huyền thoại Vladimir Horowitz đã nói: “Bây giờ thì tôi có thể nhắm mắt được rồi.“
*
Tiếng vỗ tay nổi lên khi Pogorelich và nhạc trưởng Yamashita bước ra sân khấu. Sau 15 phút, Pogorelich đã kịp thay đồ để biến hoá từ bộ dạng của một ông Tây ba-lô, thành một người đàn ông cao to lịch lãm, nét mặt đượm buồn, tóc điểm bạc húi cua, vận bộ cánh biểu diễn đuôi én màu đen quý phái. Ông chậm rãi cúi chào rồi đặt bản nhạc lên giá. Hầu hết các nghệ sĩ độc tấu đều biểu diễn theo trí nhớ. Chỉ có vài người nhìn bản nhạc khi chơi, cho dù đó là những tác phẩm họ đã diễn đi diễn lại hàng trăm lần. Ngoài Pogorelich, tôi biết ít nhất một người nữa như vậy: danh cầm Sviatoslav Richter[2]. Dàn nhạc cỡ thính phòng, chỉ gồm 15 nhạc công từ DNGH Sinfonia Varsovia, ngồi phía trước đàn piano. Sinfonia Varsovia vốn xuất thân từ Dàn nhạc thính phòng Ba Lan (Polish Chamber Orchestra). Dàn nhạc này sau đó được mở rộng và đổi tên thành DNGH Sinfonia Varsovia để đệm cho danh cầm violin Yehudi Menuhin khi ông này sang Ba Lan biểu diễn vào năm 1984. Menuhin cho rằng không một dàn nhạc nào ông từng chỉ huy hoặc diễn cùng lại làm ông thỏa mãn như Sinfonia Varsovia.
Chương 1, Allegro maestoso, của concerto số 1 có phần mở đầu bằng dàn nhạc khá dài, 138 nhịp, khiến người nghe chờ đợi những hợp âm đầu tiên của piano. Và đây rồi, “mi, ré-mi-sol, si, si, si“. Hai hợp âm cuối cùng được ghi trong tổng phổ như các hợp âm rải, nhưng hai bàn tay rộng trời sinh của Pogorelich đã chơi tất cả các notes cùng một lúc. Những đoạn chạy nhanh vụt lên chao xuống, những đoạn chậm dài lê thê. Những hợp âm mạnh vang rền như tiếng sấm, khiến có lúc tôi tưởng toàn bộ vòm trần Suntory Hall sắp sụp xuống, trong khi những notes cao và nhẹ nghe như gió thoảng lướt trên đầu các khóm trúc. Tôi chưa từng thấy một pianist thứ hai nào, kể cả Vladimir Horowitz, có được một fortissimo mạnh và một pianissimo nhẹ như của Pogorelich. Nhưng các hợp âm forte của Pogorelich không đanh, mà sâu và đen tối như vực thẳm, còn những đoạn crescendo (to dần) như sóng biển dâng trào với một sức mạnh khủng khiếp không gì ngăn cản nổi. Lên tới đỉnh điểm, âm thanh như tsunami vượt qua kè chắn, nhấn chìm mọi vật. Các đoạn chạy, dù là rất nhẹ, cũng rõ từng note, long lanh như giọt sương, giọt ngọc, phản quang muôn sắc cầu vồng, tựa hồ ánh sáng chen với bóng tối ngay trong một câu nhạc. Âm nhạc Chopin trong cách trình bày của Pogorelich hiện lên như những kiệt tác chiaroscuro[3] đầy tương phản, giàu độ chuyển sắc, và huyền bí của Rembrandt. Lối nhấn, và chơi mạnh bè trầm ở tay trái khiến tiếng đàn của Pogorelich thậm chí còn mang cả hơi thở của nhạc rock!
Nếu những cách trình bày truyền thống vẽ nên những bức tranh đẹp khi được ngắm nhìn từ xa, mà để săm soi các chi tiết, người xem phải tiến lại gần, có khi phải dùng kính lúp quan sát, thì lối chơi của Pogorelich cho khán giả nhìn thấy cả toàn cục lẫn chi tiết cùng một lúc, các mảng sáng tối lớn đồng hiện cùng các nếp vải, các loé sáng từ những viên đá quý nạm trên hoa tai, vòng cổ, và giọt lệ ngập ngừng trong khoé mắt.
Đó có còn là Chopin nữa không? Dĩ nhiên đó vẫn là bản nhạc của Chopin. Trong toàn bộ 2 concertos, tai tôi nghe thấy Pogorelich chỉ chơi sai một note. Nhưng ông đã thay đổi hầu như toàn bộ cách thể hiện, tempo, cường độ, trường độ, thậm chí đôi khi cả nhịp điệu. Ví dụ, trong chương 3 (Rondo – Vivace) của concerto số 1, các appoggiatura kép[4] cùng với note chính ở nhịp 173, 181, 189, 203, và trong phần lặp lại ở nhịp 417, 425, 433, 447, đã được ông chơi thành móc tam, nhấn vào note đầu tiên. Như một hoạ sĩ vẽ chân dung, coi khinh việc khôi phục sự “giống” bề ngoài, để vẽ nên dung nhan tinh thần được nhìn từ nhiều phía cùng một lúc, Pogorelich đã khai triển các ý tưởng âm nhạc thành chuỗi, thành dãy, lôi từ các đoạn chạy ra những giai điệu bất ngờ trong một không gian âm nhạc đa chiều đa diện.
Đối với một số người, ví dụ như cô giáo dạy piano của tôi, những thay đổi như vậy tương đương với một tác phẩm khác. Đúng, nếu quý vị chờ đợi một Chopin “truyền thống”, một Chopin ve vuốt lỗ tai, thì quý vị chắc sẽ thất vọng khi nghe Pogorelich. Ít nhất, quý vị hãy tìm nghe những người từng đoạt giải tại các cuộc thi piano quốc tế, đặc biệt là cuộc thi Chopin, nơi người ta đã đặt ra một tiêu chuẩn, một cái khuôn sẵn cho thẩm mỹ âm nhạc. Có cả một danh sách dài dặc những pianists như vậy. Riêng cuộc thi Chopin từ năm 1927 tới nay đã có 15 người đoạt giải nhất, 17 người giải nhì, 17 người giải ba, chưa kể giải 4 – 6. Nhưng xét cho cùng, chúng ta là ai để có thể phán xét và ép buộc Chopin phải là thế nào trong cảm nhận của người khác?
Khi Pogorelich kết thúc concerto số 2, tiếng vỗ tay nổi lên ầm ầm xen với tiếng kêu “Bravo” tứ phía, trong đó có cả giọng phụ nữ. Pogorelich phải ra chào tới 7 lần, nhưng ông không chơi encore.
Xuất hiện trong đêm recital, với tập nhạc trong tay, ông xếp bản nhạc đầu tiên, sonata số 2 của Chopin, lên giá nhạc, rồi vứt toẹt các bản còn lại xuống sàn, cạnh chân đàn piano.
Sviatoslav Richter, sau khi ngồi xuống, thường đếm nhẩm tới 30 trước khi chơi note đầu tiên. Vladimir Horowitz thường quay xuống ngó khán giả một lượt, nháy mắt với vài người quen, rồi mới bắt đầu. Arturo Michelangeli thì ngồi yên lặng, xoa tay như bắt quyết. Còn Pogorelich vừa ngồi xuống, đã vung tay trái chơi ngay “Ré – mi mi...”, không để khán giả kịp chờ đợi. Grave – Doppio movimento (uy nghi – nhanh gấp đôi) của ông dồn dập như bão tố. Tuy nhiên đây là cơn bão trong tâm hồn của một Pogorelich ngoại ngũ tuần, đã từng trải và đầy đau khổ. Nó sôi sục trong sâu thẳm và âm u, chứ không tuôn trào, uất ức như khi ông chơi chính bản nhạc này cách đây 32 năm tại cuộc thi Chopin ở Warsaw. Trong “Hành khúc tang lễ“, những hợp âm trầm hùng cung Si giáng thứ nối tiếp nhau to dần rồi lại khẽ đi như những bước chân đoàn người đưa tang khi gần khi xa. Vượt lên trên nền hành khúc u tối nặng nề đó là tiếng than khóc cung Ré giáng trưởng, mà Pogorelich chơi thật trong sáng, ngân nga, và day dứt. Đoạn kết sonata sầm sập gió cuốn, đá lăn, và kết thúc cũng bất ngờ như khi bắt đầu.
Nocturne op. 48 No. 1 thường được coi là thành tựu vĩ đại nhất về cảm xúc của Chopin. Nhà phê bình Kleczytheński cho rằng đoạn giữa của nocturne này là “câu chuyện về một nỗi đau còn lớn hơn, được kể lại bồn chồn khắc khoải; những tiếng thụ cầm vẳng xuống từ thiên đàng mang đến một tia hy vọng, nhưng rồi cũng trở nên bất lực khi cố xoa dịu tâm hồn đã bị tổn thương.” Nhưng, kể cả với nocturne này, Pogorelich cũng chơi hoàn toàn khác phong cách truyền thống. Phần Lento (chậm) được ông chơi rất chậm. Những hợp âm mạnh ở bè trầm và những note nhấn soprano (giọng nữ cao) đã làm biến mất mezza voce (giọng vừa và dịu) theo cách hiểu thông thường. Bất chợt, người ta không thể nhắm mắt lim dim nghe tiếng nhạc du dương quen thuộc, mà phải tự hỏi vì sao ông lại chơi khác lạ như thế. Ông chơi cả 3 phần lento, pìu lento (chậm hơn), và doppio movimento (nhanh gấp đôi) với một tốc độ gần như bằng nhau. Đoạn kết của phần đầu thường được chơi căng thẳng và mạnh. Nhưng Pogorelich lại làm ngược lại: Ông chơi rất khẽ. Đoạn các nhóm 3 notes móc kép được ông chơi thật tuyệt, với lối crescendo vô song của ông: chuyển từ thì thầm, u tối, một cách từ từ, liên tục, âm ỉ, tới bừng sáng, bùng lên như muốn vỡ tung lồng ngực.
Mephisto Waltz của Liszt mô tả một đoạn trong Faust. Faust là một tiến sĩ thần học, bác sĩ, đồng thời là một nhà toán học lừng danh, đã ký giao kèo bán linh hồn cho quỷ Satan để đổi lấy kiến thức vô biên và khoái lạc. Sau 24 năm, khi hợp đồng hết hạn, Faust đã bị quỷ Satan tới xé xác, máu me bắn toé khắp nhà. Mephisto Waltz số 1 mô tả đoạn Faust và quỷ Mephistopheles – sứ giả của Satan – ghé vào dự một đám cưới tại một ngôi làng. Mephistopheles vớ một cây vĩ cầm từ một nhạc công bị hắn bỏ bùa, chơi một điệu nhạc đầy men say cực kỳ quyến rũ, khiến Faust trở nên si mê quay cuồng với một gái làng trong một điệu vũ man dại, từ trong phòng ra ngoài sân, rồi vào rừng. Đến đây tiếng vĩ cầm trở nên dịu dàng, tới khi chim hoạ mi cất tiếng hót tràn ngập tình yêu. Mephisto Waltz trong tiếng đàn của Pogorelich nghe như âm thanh của một dàn nhạc. Các ngón tay dài và khoẻ của ông cắm ngập xuống phím đàn như móng vuốt của con mãnh thú cắm vào da thịt con mồi, cầy lên những vắt cung bậc ma quái, nhễ nhại âm sắc của dàn dây, của bộ gõ, bộ hơi với một công lực mà tôi chỉ từng cảm thấy, nếu như có một chút tương đồng, từ Vladimir Horowitz.
Trong hai đêm hoà nhạc, Pogorelich dường như đã đưa tôi ngao du từ các bức tranh Baroque trong hai concertos, vượt qua Cổ Điển, Lãng mạn trong sonata và nocturne của Chopin, tới Siêu thực trong Mephisto Waltz và Lập Thể giải tích trong sonata của Liszt.
Những note cuối cùng của bản sonata 35 trang này được ông chơi cách quãng tới xa xăm. Kết thúc bản sonata, ông giữ ngón tay rất lâu trên note si thấp nhất, cho tới sau khi toàn bộ âm thanh đã tắt hẳn.
Cả khán phòng mênh mông chìm vào im lặng, không tiếng ho, tiếng sột soạt, thậm chí cả tiếng thở. Hình như tất cả khán giả cùng nín thở lúc đó.
Im lặng tưởng như tuyệt đối.
Im lặng tới mức cả 4’33’‘ của John Cage cũng phải chào thua.
Im lặng của Cái Chết.
*
Đối với một người đã thành thục các kỹ thuật phức tạp nhất của nghệ thuật chơi piano từ năm 16 tuổi, và vào học tại nhạc viện Moscow 5 năm trời “chỉ để hiểu mình không nên chơi piano như thế nào“, thì chơi piano theo phong cách truyền thống của số đông là một việc dễ như chạy gamme. Nhưng Pogorelich đã sớm từ bỏ con đường làm một nghệ sĩ piano “giỏi nhưng tầm thường” để trở thành một pianist ngoại hạng. Ivo Pogorelich trong trình diễn piano hiện đại cũng tựa như Pablo Picasso trong hội hoạ, dù năm 12 tuổi đã vẽ như Raphael, song đã từ chối đi theo lối cũ, để sáng tạo nên “Các cô gái Avignon” và “La Guernica“, mà cho đến tận giờ, nhiều người vẫn không “tiêu hoá” nổi.
Nếu thiên nhiên chỉ là cái cớ để Rembrandt, Picasso sáng tạo nên các kiệt tác hội họa của mình, thì Mozart, Beethoven, Chopin, Liszt, Ravel, Rachmaninov, Balakirev, v.v có lẽ chỉ là nguồn mạch để từ đó Pogorelich rút ra tiếng đàn và cách biểu hiện của riêng ông. Đó là tác phẩm nghệ thuật, nhân cách nghệ sĩ của ông, vô tiền khoáng hậu.
Vì thế, việc Đại khán phòng Suntory Hall còn nhiều chỗ trống trong hai đêm diễn của Ivo Pogorelich không phải là điều ngạc nhiên. Một người bình thường thích âm nhạc và nghệ thuật qua con đường học vấn dễ bị điều kiện hoá bởi những gì chính thống cho là hay là đẹp. Tiềm thức con người luôn so sánh những gì mình đang nhìn thấy hoặc đang nghe thấy với những gì đã từng nhìn và nghe thấy, nay còn đọng lại trong trí nhớ. Kho dữ liệu ấy luôn đi kèm với những tiêu chuẩn về cái hay cái đẹp mà con người được dạy và được học. Chính cái nền học vấn và văn hoá này đã khiến người ta không còn vô tư khi thưởng thức nghệ thuật. Người ta không thích Chopin trong cách trình bày của Pogorelich không phải vì tiếng đàn (rất đẹp) hay kỹ thuật (siêu việt) của ông, mà bởi ông chơi Chopin hoàn toàn khác thường. Không ít người coi lối chơi của Pogorelich là quá táo bạo, quá mạnh, như một cuộc cách mạng, trong khi người ta chỉ muốn “cải lương”, cải tiến chút xíu trong cách trình diễn, chủ yếu nặng về kỹ thuật, không đi chệch ra khỏi dòng chính của “phong cách Chopin”, đã được thiết lập vững chắc bởi những nhạc viện, viện nghiên cứu, hội đoàn “chính thống” đầy “thẩm quyền” trên toàn thế giới. Ngày nay, để có một “sự nghiệp quốc tế”, một nghệ sĩ piano thường phải đi theo con đường đã vạch sẵn (học nhiều năm tại nhạc viện, chơi theo yêu cầu để thắng tại các cuộc thi, dành các hợp đồng biểu diễn, v.v.). Đối với những người như vậy, lối chơi của Pogorelich cũng gần như một sự phủ nhận, một sự xúc phạm. Thực ra, những gì Pogorelich đang làm trong nghệ thuật trình tấu piano cũng tương tự như những xì-căng-đan mà Edouard Manet hay Claude Monet đã gây ra trong hội họa cuối thế kỷ 19 khi các hoạ sĩ này tuyên chiến với “trường phái hàn lâm”.
Dù sao, những người trung thành với phong cách piano truyền thống vẫn có thể yên tâm: Ivo Pogorelich chỉ có một, độc nhất vô nhị. Với những thính giả như bà người Âu ở đầu bài viết này, Tokyo có đủ lựa chọn dành cho họ. Từ nay tới cuối năm, theo trình tự thời gian, họ có thể đi nghe Akira Eguchi (Hamarikyu Asahi Hall), Đặng Thái Sơn (Kioi Hall), Yu Kosuge (Izumi Hall), Maurizio Pollini (Suntory Hall), Radu Lupu (Tokyo Opera City Hall), và Lang Lang (Suntory Hall). Những thính giả thích cả phong cách truyền thống lẫn những lối chơi “phá cách” có nhiều lựa chọn hơn, bởi họ không câu nệ, mà chỉ đơn giản là họ thích những gì họ thấy thích. Ít lựa chọn nhất thuộc về những ai đã chán những sáo mòn, cho dù có êm ái, tinh xảo. Đối với những người này, lối diễn tấu và tiếng đàn của Ivo Pogorelich có tác dụng như một thứ rượu mạnh, một khi đã “phê” rồi thì mọi đồ uống khác đều trở nên nhạt nhẽo.
Nguyễn Đình Đăng
Tokyo 12/5/2012
[1] Xem Barry Davis, “Có thế nào chơi như thế” và các bài liên quan ở cuối bài đó .
[2] Trí nhớ giảm sút về cuối đời đã khiến Richter phải biểu diễn với bản nhạc mở trước mặt.
[3] Chiaroscuro – thuật ngữ tiếng Ý có nghĩa là “sáng-tối”, chỉ tương sự phản rõ ràng về sắc độ, được dùng trong hội họa nhằm tạo khối và nêu bật chủ đề. Trong số các danh hoạ chiaroscuro phải kể đến Caravaggio, Rembrandt, Velasquez, Rubens.
[4] Appoggiatura (note dựa hay note hoa mỹ) – thuật ngữ âm nhạc tiếng Ý chỉ note thêm vào trước note chính, có trường độ ngắn hơn và cường độ yếu hơn nốt chính.