Đám Giỗ Xưa Và Nay

Duy Thức
24.10.2011

Thành phố tôi ở nhà cửa xây dựng san sát, ồn ào không có được một phút yên tịnh. Vốn đây là trại gia binh của lính quốc gia cũ, ngày trước thuộc trại Phòng vệ Phủ thủ tướng.

Một thời gian bị cháy còn phân nửa. Tôi mua lại căn nhà của nhà thơ Hà Thúc Sinh trước năm 75 khoảng bảy năm ở cho đến nay qua nhiều biến cố lịch sử. Tôi cũng thế. Người cũ lớp chết, lớp đi nơi khác, chỉ còn lại vài ba nhà phần nhiều đã cất lại mới do nguời mới sang lại. Người Bắc sau 75 vào Nam tràn về ở khá đông. Xóm này nhiều tôn giáo, chỉ riêng tôi thờ Trời Đất Tổ tiên Ông Bà và tự xưng là người theo Thần đạo VN có gốc thời vua Hùng. Từ chuyện thờ thần Đồng Cổ, đến nay tôi soạn lại bộ Thần Đạo Đại Việt thành sách và kinh dày khoảng mười ngàn trang, đã xong.

Xóm bề ngang khoảng năm mét cho đường xe chạy qua, từ lúc tôi ở đến nay bầu tổ trưởng thay đổi khoảng năm, bảy ông bà rồi.

Hôm qua là ngày giỗ ông tổ trưởng cũ, ông này chạy từ Nam vang về, tính hiền hòa nhưng từ lúc lên được tổ trưởng thì tích cực lắm, cũng như các ông tổ trưởng khác, dựa vào nhà nước mà ra oai với dân. Sau phường bắt làm việc nhiều quá, ông nổi cáu và dường như bỏ ngang không làm để cho người khác tiếp tục càn quét, tích cực làm khổ bà con hơn. Ông tổ trưởng gần kế nhà tôi chết khá lâu, con làm nghề chạy xe ôm. Hôm nay là ngày kỵ của ông nên mời bạn bè tứ xứ về nhậu, xe đậu nghẹt cả xóm để vui chơi mừng ngày giỗ.

Rồi thì lớp ăn nhậu la hét, ca hát karaoke ồn ào như vỡ chợ, nói cười oang oang to tiếng điếc cả xóm trên, xóm dưới.

Một bà già độc thân, già héo đau tim chịu không nổi kêu lên:

– Ông cha chết mà vui sướng gì, la hét ăn nhậu ồn ào mất dạy như thế.

Người khác cũng nói:

– Ngày trước có ca hát vui vẻ thì Lệnh vua hành quân trống kêu dồn… vừa gõ bàn vừa hát. Còn bây giờ 306, 307 gì đó micro bắc loa vang dội cả khu phố, điếc tai loạn xà bì hết. Thật chẳng giống ai, không biết ông cha nó ở dưới âm phủ có nghe được không.

Xe cộ bà con của ông tổ trưởng tới càng đông. Mấy thằng cháu chạy cầu thang đùng đùng. Cha tụi nó đeo đuổi mộng giang hồ, chứa gái làm phim nghèo đã đi gỡ lịch trên ba, bốn năm rồi nên ngày giỗ ông tổ trưởng không thấy về. Chúng hát nhạc mới lẫn lộn Đêm Hỏa Châu hay Con đường trắng ở Huế, cả đĩa nhạc chào đón Xuân rộn ràng của ca sĩ Ánh Tuyết thật là rối loạn như đám giặc chòm.

Rượu bia loại chai xanh, loại giả bia, loại rượu uống từng can, từng thùng mặc sức tuôn chảy đầy cổ họng đến tận hai, ba giờ khuya chưa yên cho bà con nghỉ ngơi.

Chuyện ăn giỗ theo kiểu mới này ở khắp thôn làng thành thị đều giông giống nhau. Điều này tự nhiên bắt tôi nhớ tới một đám giỗ ở Tân An ngày xưa, cách đây gần năm mươi năm còn gì. Chuyện theo ông giám đốc trường Tân Thanh đi dự đám giỗ miệt vườn, thật là một ấn tượng thanh nhã khiến lòng dạ tôi đến nay vẫn còn cảm khái, ngậm ngùi.

Trước đây mỗi lần có đám tang hay đám giỗ, phần lớn bà con cúng kiếng rộn ràng, cỗ bàn la liệt. Người dự đám ở thôn quê, nhất là đám giỗ của các ông chủ điền chủ đất ruộng đồng chó chạy cong đuôi, cò bay mỏi cánh cũng không hết được.

Khi đó tôi học lớp đệ nhị ở trường Tân Thanh, ông giám đốc thương vì làm thơ Đường hay, đối đáp với người lớn lưu loát nên đi đâu ông cũng dắt tôi theo như con.

Ông là Thái Sanh Khương, em của Thái Sanh Bính, nhà vô địch cờ tướng bấy giờ.

Ông Thái Sanh Khương như dân Tây, nói tiếng Tây như bắp rang với các vị giáo sư như Tam Ích, Bùi Giáng, Thiên Giang. Nhất là lúc các ông tranh luận về quan điểm sống, sống theo thời hay theo cách mạng, hay tệ hơn là tiền học phí phải trả của học sinh, tiền giáo sư hàng tháng chưa có… Chúng tôi chỉ nghe lõm bõm, rồi đi chơi chỗ khác hơn là đứng đó dựa cột mà nghe.

Ngày đó nhà có đám giỗ ông bà dưới Tân An, ông Thái Sanh Khương dắt tôi về đó ăn đám giỗ. Vì lúc đó cách đây gần năm, sáu mươi năm nên tôi quên mất làng nào. Chỉ biết ông đi đâu, tôi đi đấy.

Về đến ngôi nhà ngói lớn đã nghe rập ràng tiếng hát, tiếng đàn tranh, đàn cò, đàn nguyệt í o í èo cộng liu xê xáng líu ú vang vang. Tôi vốn mê nhạc cổ nhưng không ưa cải lương. Thật ra cha tôi, ông Hai Điểu gần như có lập gánh và nhiều lần có chân trong các gánh cải lương thời đó, nhất là gánh Mai Hoa.

Tôi không ưa cải lương mà chỉ thích tiếng đàn tranh, đàn nguyệt, đàn tì mà thôi. Tôi thích nghe cổ nhạc nhưng rất ghét điệu vọng cổ và các tài tử ráng gân cổ để ca khóc bài vọng cổ nỉ non, yếu đuối, nhất là các vở cải lương, hễ mở TV bây giờ mà coi, lúc nào cũng thấy các ca sĩ, diễn viên nam hay nữ rên la khóc lóc trông thảm hại làm sao. Cứ khóc là có cải lương rồi.

Trên thế giới có lẽ không có loại ca kịch nào khóc lóc thê thảm hơn nữa. Đó là điệu mất nước, cả thời bây giờ cũng vậy thôi. Nhưng lạ thay có một hình ảnh nàng ca kỹ cải lương mà hầu như từ lúc nghe cô ca hát, tôi không bao giờ quên. Gia đình ông Thái Sanh Khương mướn đàn ca tài tử về gây nguồn cảm khái và xôm tụ cho đám giỗ lớn, cả làng cùng đi dự kìa.

Đêm đó về quê lội bộ vào đồng không mông quạnh cả ngày mới đến làng nhà ông, tôi khá mệt. Bỗng tôi thấy xuất hiện dưới ánh đèn măng xông sáng rực như ban ngày, một người đàn ông với cây đàn thùng tròn cẩn ốc xà cừ thật xưa, thật đẹp. Tiếng đàn như có gắn điện ngân xa. Một cô gái dáng thanh tú, tóc mây xõa dài xuống hai vai, mặc áo dài xanh như trong đêm dạ hội.

Nét mặt, lời ca sao thần tiên kỳ ảo quá. Tôi có vẻ lãng mạn cứ đứng chen trong đám dân làng nghe hát, nhưng thật sự tôi nhìn cô hát thì phải hơn. Chiêm ngưỡng cô đứng đấy dịu dàng, diễm tình xiết bao khiến tôi như bị thâu mất hồn phách trong tà áo xanh, mà khi ra về nhớ lại ghi ra mấy vấn thơ:

Trăng mười sáu tuổi trong hoa
Em mười sáu tuổi trong tà áo xanh

Kể từ đó tôi say mê những nàng ca kỹ. Sau này tôi có viết lại truyện Nàng Ca Kỹ Bến Tân Quy đăng ở báo Ngàn Khơi của Nguyễn Hữu Đông và Trần Dạ Từ-Nhã Ca rất ăn khách.

Trần Dạ Từ nói với tôi lúc đăng truyện ấy:

– Mày viết hay lắm. Cố lên mà sống bằng ngòi bút.

Đại khái như vậy.

Cô Thanh ca hát suốt đêm dài, càng lúc càng lộng lẫy, càng mơ màng, càng làm quyến luyến mọi người, nhất là tôi.

Ông Thái Sanh Khương, giám đốc trường Tân Thanh là dân công tử thời bấy giờ, dường như ông đi Tây học rồi trở về VN, không biết có đi kháng chiến không mà bị mất một cánh tay. Lúc dạy Pháp văn, ông vừa ngậm thuốc, dáng người cao lớn quắc thước. Ông uống bia, hút thuốc đều chỉ dùng một tay. Đàn tranh mười sáu dây rất điệu nghệ cũng chỉ nhấn vuốt, móc chạy dây cũng chỉ có một tay mà dồn dập từng cơn âm thanh như sóng cồn cửa bể nhấp nhô, ì ầm rộn rã trong đêm khuya.

Cho đến gần sáng tôi ngủ lúc nào không biết trên bộ ván ngựa, tấm mền ai đắp lúc nào không hay. Đến sáng bạch, trời lên cả con sào tôi mới tỉnh dậy. Tôi giật mình nhìn xung quanh, không khí đám giỗ rộn rịp tưng bừng, hằng mấy mươi người đang bưng dọn cỗ bàn.

Ông Khương thay vì mặc đồ tây như mọi khi ở trường, đã thay bộ khăn đống áo dài trông bệ vệ như người xưa. Ông đang thắp hương khấn vái lên bàn thờ gia tiên, kính cẩn và uy nghiêm lắm. Từ đó trong tôi phục ông Khương vô cùng. Ông dân Tây mà không bỏ lề thói phong lưu của dân Nam bộ, ông lại giữ tròn đạo hiếu như người xưa, cao quý đáng kính thay. Tôi đảo mắt nhìn ra ngoài vườn, lúc này mùi cam quýt thơm bát ngát. Cây trái xum xuê ra hoa ra quả. Mảnh đất thiêng liêng của gia tộc ông Khương có lẽ là nhà phú hộ bậc nhất làng này.

Tôi đi ra ngoài bờ ao nuôi cá, không thấy hai người tài tử hồi đêm khuya đâu cả. Giống như trong giấc mơ, họ là tiên hay hồ ly chỉ hiện một đêm của giấc liêu trai đó mà thôi.

Tôi không dám hỏi ông Khương về cô ca kỹ đó. Tôi sợ ông cười mình đa sầu đa cảm, ủy mị hay ghê hơn nữa là chưa chi đã mê đào cải lương, đồng nghĩa với mê đắm sắc đẹp…

Tôi vào nhà trong coi đám dân làng đàn hát ồn ào vui vẻ, chợt thấy một thanh niên quen quen đã cùng tôi đứng suốt đêm nghe cô Thanh hát, đúng hơn là ca tài tử. Tôi hỏi anh ta:

– Cái cô hát hồi khuya đâu rồi anh?

Anh ta nhìn tôi nói trỏng:

– Cô hát đó hả? Ai mà biết cổ đi đâu.

Hay là cô ta mệt quá nên ngủ trễ hơn mình. Tôi nghĩ như thế rồi lại xao xuyến trong lòng tự hỏi. Người đàn ông đàn kìm cho cô ta hát là ai nhỉ? Là anh, là cậu hay chỉ là nhạc sĩ thôi… Chẳng lẽ lại là người tình, người yêu của cô ta. Lòng tôi tự nhiên không thích anh ta là chồng hay người yêu của cô Thanh. Ý nghĩ thật lạ lẫm làm sao.

Cuối cùng lúc đám giỗ đã xong, phải ở ngôi nhà cổ đó ba ngày, ba đêm rồi ông Khương mới từ giã bà con để cùng tôi ra về.

Ông nói :

– Đám giỗ vui quá, bà con không muốn mình lên Saigon. Họ muốn thầy ở đây chơi với họ hoài.

Ông Khương không hề nhắc đến cô ca sĩ và anh nhạc sĩ đàn kìm khiến dọc đường tôi cứ ngó quanh dáo dác. Biết đâu trên cánh đồng xanh bát ngát này tôi tìm thấy bóng dáng cô gái mặc áo xanh và người đàn tài tử nọ.

Ông Khương thấy tôi thấp thỏm, bỗng hỏi:

– Con có ăn no không ?

Ông biết tôi mồ côi không cha mẹ, ngủ trộm ở trường bị ông bắt gặp. Tôi nghe ông hỏi lại nghĩ khác. Giá mà ông kể chuyện nàng ca kỹ tên Thanh cho mình biết, nàng ở đâu và có hát trong gánh cải lương nào không thì tốt hơn. Trước khi bạo gan hỏi về cô Thanh, tôi bỗng táo bạo hỏi ông:

– Ông đốc ơi. Tại sao ông lại bị mất một cánh tay?

– Ờ đó là… thầy bị kẹt cửa xe hơi mà thôi. Kẹt hồi ở bên Tây lận.

Tôi không dám nói gì nữa cho đến khi về đến Saigon mới hỏi:

– Còn mấy người đàn ca tài tử đó, họ còn ở Tân An không?

Ông Khương nói:

– Ai gọi thì họ tới. Họ ca cho các đám cưới đám giỗ nhiều hơn đám ma. Họ chơi tài tử nay đây mai đó để sống cho trọn kiếp giang hồ của họ thôi. Có lẽ ở xóm trên cũng có đám giỗ nên họ chỉ ca hát có một đêm rồi sáng sớm họ đi nơi khác rồi.

Tôi ra về lòng buồn buồn, bỗng nhớ tới câu thơ trong Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị: Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh. Bước trên đường tôi cứ nghĩ mình là Tư Mã để lẩm bẩm:

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa khách dừng chèo

Hình ảnh đàn ôm che nửa mặt hoa cứ ám ảnh tôi. Cảnh tình ấy gợi cho tôi nỗi nhớ nhung như tương tư cô gái tên Thanh đó mãi đến bây giờ đã gần năm mươi năm rồi. Có lẽ đối với tôi, đó là hình ảnh thơ đầu tiên của một nàng ca kỹ đất Tân An thuở nọ.

Đám giỗ tuyệt vời quá khiến tôi không dám nghĩ tới những đám giỗ đời nay ở quê hay ở thành phố ăn uống ồn ào thô tục, đôi khi ca hát thì chỉ có rống lên Trường Sơn đông Trường Sơn Tây. Cái gạt nước xua tan đi nỗi nhớ hay lại 306, 307 trong đám giỗ bộn bề xương thịt của trâu dê gà vịt và rượu uống như ngưu ẩm. Và rồi thì đánh đấm chửi mắng nhau liên miên của cái nền văn hóa ẩm thực ngày nay.

Duy Thức

Nguồn: http://thoibao-online.com
  

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây