Kí Giả Lô Răng
1995
Mùa xuân không có hai lần
(Văn Cao)
Đầu năm 1995, có người trao cho tôi một cuốn video mà tôi mong đợi đã từ lâu. Cuốn băng về Văn Cao: “Giấc mơ của một đời người“. Từ bữa ấy tới nay, đã 2, 3 lần xem đi xem lại cuốn băng này mà lần nào xem xong tôi cũng không tránh khỏi thở dài. Một con người tài hoa như vậy, tâm hồn lớn lao như vậy, có công đóng góp như vậy mà cuối đời, sao mà tẻ lạnh, buồn tênh. Một ông già lụm cụm, râu tóc bạc phơ, một mình trong gian phòng vắng, ngoài trời mưa bay, cây bàng khẳng khiu, những chiếc lá cuối cùng đã rụng. Văn Cao nhìn “cây bàng mồ côi mùa đông”, trong khi chiếc đồng hồ trên tường không ngừng nghỉ, điểm những giọt thời gian tích tắc, tích tắc. Những tiếng tích tắc ấy vang lên mênh mông trong gian phòng vắng như một câu hỏi mơ hồ nhưng khắc nghiệt: đến bao giờ. Đến bao giờ xuất hiện dấu chấm hết cho một dời người, bởi vì không ai tránh khỏi: con người sinh ra là để chết (l”homme, un être mortel). Những tiếng tích tắc ấy như những giọt cường toan (acid) nhỏ xuống lòng người.
Khi cuốn băng này ra đời (1994), Văn Cao đã bước qua ngưỡng cửa “thất thập cổ lai hi”. Không nói ra nhưng những người dựng cuốn băng này muốn thực hiện một khúc bi ca, viếng người còn sống; sợ không làm thì không còn kịp nữa, thời gian gấp gáp đuổi sau lưng… Cũng có thể những người thực hiện cuốn băng thấu hiểu cái lẽ “sinh ký tử qui” (sống gởi thác về) giống như người xưa, có tuổi rồi là sắm một “cỗ áo” để sẵn trong nhà phòng khi hữu sự. Hay là bắt chước mấy ông nhà Nho già ngày trước, thân với nhau đến độ làm sẵn những đôi câu đối sinh vãng (làm sẵn từ khi còn sống) để lỡ khi bạn mình nằm xuống đất thì đã có sẵn câu đối, cứ thế mà treo lên. “Người sắp chết nói lời khôn — Chim sắp chết, tiếng kêu thương”.
Xem cuốn phim video này nó thảm, nó buồn là vì vậy. Ở Úc này, nghe nói có loài chim thornbird (cũng như cuốn tiểu thuyết lừng lẫy The Thorn Bird). Giống chim này hót hay nhất, thê thiết nhất, tuyệt vời nhất khi chiếc gai nhọn đâm thấu vào tim, máu chảy tràn trề. Máu trong tim vừa cạn thì khúc bi ca cũng vừa chấm dứt. Cái cảm giác thảm thê, rờn rợn khi xem cuốn video này của tôi (ký giả Lô Răng) đã dự báo đúng. Văn Cao, con chim thornbird Việt Nam đã mất vào tháng 7/1995. Những người yêu mến Văn Cao đã kịp thời thực hiện cuốn băng này trước khi không còn kịp nữa.
Nhưng theo tôi buồn một nỗi là cuốn video này là một tác phẩm bất toàn. Cuốn băng có 8 bài hát, những tác phẩm siêu việt của Văn Cao (Suối Mơ, Thiên Thai, Buồn Tàn Thu, Cung Đàn Xưa, Thu Cô Liêu, Đàn Chim Việt, Trương Chi, Sông Lô). Những hình ảnh trong cuốn băng này rất chọn lọc, tìm tòi, hàm súc (chứa đựng nhiều nhưng không lộ ra), chứng tỏ đạo diễn có một tay nghề cao, một tâm hồn nhạy bén. Những lời tự thuật ngậm ngùi của Văn Cao, cảnh người nghệ sĩ già chống gậy đứng ngẩn ngơ trước một con ngõ cũ hoang tàn, những chiếc lá bàng nhỏ lệ trong mưa đã phần nào nói lên tâm sự của Văn Cao, một nhạc sĩ sáng tác Tiến Quân Ca, đồng thời là một người tù bị giam lỏng vì liên hệ tới Nhân Văn Giai Phẩm.
Cuốn băng này bất toàn vì theo tôi (ký giả Lô Răng) phần nhạc và hát trong cuốn video không xứng với phần dàn dựng và hình ảnh. Kỹ thuật thu thanh ở Việt Nam còn yếu, tôi thoạt đầu đã nghĩ như vậỵ Nhưng nghe kỹ tôi thấy những người thực hiện đã “thả nổi” phần nhạc, phần ca. Hòa âm sơ sài, đơn điệu. Người hát không hiểu tinh thần bài hát, hát không “tới” và lời ca sai lạc rất nhiều. Những người soạn nhạc nổi danh ở Việt Nam, trước khi là nhạc sĩ, đã là thi sĩ. Lời của Văn Cao trong các bản nhạc của ông là “lời châu ngọc”. Ca sĩ “bây giờ” hát bừa đi, ào đi, chữ nọ lẫn chữ kia, người già như tôi nghe lại bài hát cũ mà như vừa đánh mất một cái gì quý giá.
Có một sự việc rất rõ trong vấn đề “thả nổi” kia. Sắp sửa vào bài gọi là Đàn Chim Việt, Văn Cao trong lời tự thuật cho rằng “Tôi ngày xưa có yêu thầm một người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người con gái ấy hiểu lòng tôi và đến với tôị Vì thế nên mới có câu “Em đến tôi một lần” và mới có bài hát này”. Đến khi ca sĩ hát đi hát lại bài này, tôi không tìm thấy câu “Em đến tôi một lần” đâu hết. Từ đó tôi mới dám nghĩ rằng chính bản thân tác giả Văn Cao không được hỏi ý kiến và không được nghe ca sĩ hát tác phẩm của mình.
Đầu thập niên 40, tôi là anh học trò mới lớn, tuổi 15, 17. Thời kỳ tôi thuộc nằm lòng Thăng Long Hành Khúc của Văn Cao: “Cùng ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng. Trông khói sương chiều ám trên giòng sông“. Tôi bắt đầu say mê Buồn Tàn Thu với lời đề tặng đáng ghi nhớ của tác giả trên đầu bài hát: “Tương tiến Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn“. Lúc bấy giờ Phạm Duy đang đi theo các đoàn cải lương suốt từ Bắc vào Nam và ngược lại. Giữa hai màn cải lương, Phạm Duy ôm đàn hát: “Đêm mùa thu chết. Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng. Em ngồi đan áọ Lòng buồn vương vấn. Em thương nhớ chàng” (Buồn Tàn Thu). Lối hát ấy, thời bấy giờ gọi là “entre-scènes”. Và Phạm Duy cho tới nay vẫn tự xưng là một kẻ hát rong, chính đã bắt đầu như vậy.
Cách mạng tháng 8 bùng lên. Như một trò chơi hấp dẫn, người học trò mới lớn ném cả tâm hồn và thể xác vào cuộc đấu tranh dành độc lập cho xứ sở Văn Cao lúc ấy nổi lên rực rỡ như một khuôn mặt điển hình của thanh niên. Vừa mang súng lục làm Trưởng ban Ám sát thành (theo lời Tô Hiệu, Hải Phòng) vừa là nhạc sĩ sáng tác những bản nhạc đấu tranh cách mạng: Tiến Quân Ca, Bao Chiến Sĩ Anh Hùng, Hải Quân Hành Khúc, Không Quân Hành Khúc, Bắc Sơn, v. v… Không những thế con người cách mạng ấy còn là tác giả của những khúc tình ca ngây ngất: Suối Mơ, Thiên Thai, Đàn Chim Việt, Trương Chi.
Cách mạng bùng lên, rồi kháng chiến trường kỳ… Văn Cao là một nhà sáng tác lừng lẫy. Phạm Duy lúc bấy giờ là một ca sĩ hàng đầu, được yêu mến khắp mọi nơi…
Văn Cao: Gặp gỡ
Tháng 2/1947, chúng tôi (ký giả Lô Răng) tự vệ khu Đông Thành, sau 2 tháng kháng chiến bằng lựu đạn, bằng mã tấu, bằng “súng trường Indochinois”, đã rút ra khỏi Hà Nội, “bỏ kinh thành rừng rực cháy sau lưng”. Trong khi anh em khác đi Liên khu 10 gia nhập Trung đoàn thủ đô, tôi về quê (Quốc Oai, Sơn Tây) vào Ban Tuyên truyền xung phong của tỉnh. Tôi có một ông anh (lấy bà chị họ tôi) làm “lớn”. Tôi không biết chức vụ của ông là gì. Chỉ biết ông quen biết những cán bộ trên khu, trên tỉnh. Đặc biệt ông có bên mình hai khẩu súng lục. Một khẩu Colt 12 bắn đạn Thompson lùn tịt, một khẩu nữa Parabellum của Đức bắn đạn 9, Thời trường kỳ kháng chiến, ai cũng quần nâu áo vải, chưa có quân hàm, quân hiệu nên cứ nhìn “súng” là ắt biết người. Anh nào mang mã tấu mà lại răng đen thì “chém chết” cũng là du kích. Anh nào vác Mút-cơ-tông dài ngoằn thì khỏi phải hỏi, đó là binh bét. Anh nào mang súng ngắn thì biết ngay đó là “cán bộ”. Do đó nên mới có thành ngữ “quan to, súng ngắn”. Từ thành ngữ này mà luận ra thì súng càng dài bao nhiêu thì cấp càng thấp, súng càng ngắn thì chức càng caọ Trong thời kỳ đó mà ông anh tôi có những hai súng ngắn, súng nào cũng thuộc loại “chiến” thì phải hiểu là ông anh tôi có cỡ đến mức nàọ Hỏi ông ấy làm gì thì ông chỉ ừ hử không chịu nói ra. Ngoài việc làm quan to, súng ống đầy người, ông còn học giỏi, đàn ngọt, hát hay nên tôi chịu ông anh này lắm.
Một hôm, ông anh tôi mới hỏi tôi “Muốn đi gặp Văn Cao không? “. Thời kháng chiến 9 năm, Văn Cao là một tên tuổi lẫy lừng khắp nước, ai mà không hát Tiến Quân Ca, Bao Chiến Sĩ Anh Hùng, … ai mà không ngâm ngợi “Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối… “.
Cho nên tôi nao nức đạp xe đi theo ông anh tôi liền. Từ quê tôi qua Thạch Thất, tới Cầu Trò rồi theo đường liên tỉnh (lúc đó đã bị phá hoại, đào đường kháng chiến ngang dọc khắp nơi, nhưng xe đạp vẫn còn đi được) lên thị xã Sơn Tâỵ Từ Sơn Tây qua Quảng Oai lên bến Trung Hà. Ở đây phải đi đò qua sông Cái (sông Hồng) sang một thành phố ngã ba bên kia sông: Việt Trì. Ngày xưa chỗ này gọi là Ngã ba Hạc. Việt Trì là một thành phố trại lính. Thời Pháp thuộc có hẳn một binh đoàn Lê Dương (Légion Viet Tri) trấn đóng khu vực chiến lược nàỵ Đây là địa đầu của trấn Sơn – Hưng – Tuyên (Sơn Tây – Hưng Hóa – Tuyên Quang) trọng yếu ngày xưạ
Sang đến bên kia sông, ông anh tôi đi tìm một người bạn “thổ công” ở miền đất nàỵ Đó là nhạc sĩ Lưu Bách Thụ, tác giả Con Thuyền Xa Bến (“Theo gió thuyền xuôị Sóng đưa bèo trôị.. “). Theo ông anh tôi kể lại, Lưu Bách Thụ nguyên là lính kèn ở thị trấn nàỵ Bây giờ ông không thổi kèn tò te, tí te nữa mà ông sáng tác nhạc cải cách và trở thành ông bầu văn nghệ đầu đàn thời ấy, gồm những khuôn mặt lớn như kịch sĩ Song Kim (bà Thế Lữ), Phạm Văn Đôn (kiêm họa sĩ, nhạc sĩ), các ca sĩ Phạm Duy, Mai Khanh, Phạm Đình Viêm (Hoài Trung sau này), nữ ca sĩ Thương Huyền, Hoàng Oanh (Hoàng Oanh xưa ở Hải Phòng, không phải Hoàng Oanh bây giờ), v. v… Văn Cao, ngoài tư cách là nhạc sĩ sáng tác, còn kiêm nghề tiền đạo (élément précurseur) đi trước một bước để sắp xếp nơi diễn và lo liệu nơi ăn chốn ở cho đoàn kịch. Đoàn chưa đến nhưng Văn Cao đã có mặt trước ở Việt Trì. Tôi theo ông anh tôi và nhạc sĩ thổ công Lưu Bách Thụ tới một quán nước ven bờ sông. Ở đó, tôi gặp một người đàn ông còn trẻ chừng 24, 25 tuổi nhưng có vẻ muốn già đi vơi cái mũ nồi sụp trước mắt và chiếc pipe (ống điếu) phì phà khóị Người thanh niên này không đẹp trai, phải nói như vậy, nhưng có một phong cách khác người, một vẻ tự tin đặc biệt. Ông anh tôi khẽ nói với tôi “Văn Cao đấy”. Đến lượt tôi tiến tới bắt tay, anh tôi bỏ nhỏ “Cậu em tôi ở quê nhà, muốn được gặp Văn Cao”. Người thanh niên không nói gì, chỉ giơ tay bắt, con mắt nheo lên một nét cười thầm lặng.
Lúc bấy giờ tôi là một anh “nhóc” mới lớn lên, 19 tuổi, nên ngồi im nghe các đàn anh chyện vãn. Một lát sau, bún riêu, cà phê xong xuôi, ông anh tôi và Lưu Bách Thụ vội vàng đi vì nghe tin thuyền buồm chở đoàn kịch đã tới. Chỉ còn Văn Cao và tôi ngồi lại. Văn Cao vẫn không ngớt phì phà khói pipe. Tôi rụt rè nêu câu hỏi: “Dạo này, hát bài của anh sướng quá. Từ các bản cách mạng Tiến Quân Ca, Bắc Sơn sang các bản trữ tình Suối Mơ, Thiên Thai. Dạo năm ngoái triển lãm Cách mạng tháng 8 ở Khai Trí Tiến Đức còn thấy bày tranh của anh nữạ Rồi thơ Chiếc Xe Xác Qua Phường Dạ Lạc“. Văn Cao giơ tay như muốn ngắt lời tôi: “Tôi hiểu ý của cậu rồị Có phải cậu muốn hỏi rằng tôi rồi đây sẽ nghiêng về địa hạt nào ? “. Tôi gật đầu, đồng ý. Văn Cao nói tiếp, “Tôi sống với cả ba, nhưng thời kỳ qua có thể gọi là thời kỳ nhạc, thời của Cách mạng, của kêu gọi, của đám đông. Đến một lúc nào đó, con người phải quay về với nội tâm mình, có lẽ thời kỳ đó đối với tôi là thời kỳ thơ, thời kỳ họạ Với lại về nhạc, dạo này có một người bạn tôi, mới sáng tác nhưng anh ta có một sensibilité kỳ lạ (tôi còn nhớ nguyên chữ sensibilité được nói rất trang trọng của Văn Cao)” — Người ấy là Phạm Duỵ
Thành phố trại lính Việt Trì cũng như các thành phố khác lúc bấy giờ đang tiêu thổ kháng chiến. Một rạp hát đã bị phá bỏ mái, không còn tường bao xung quanh, nhưng sân khấu vẫn còn. Buổi trình diễn của đoàn ca kịch Giải Phóng cho quân, dân, chính Việt Trì được tổ chức trong nhà ấy. Không có ghế, mọi người phải ngồi xổm xuống sàn mà coi. Có kịch “Trả con tôi đây” do những kịch sĩ danh tiếng một thời trong ban kịch Thế Lữ thủ diễn. Có đơn ca của Thương Huyền “… Khi bước đi, vó câu xa xa dồn bao nhớ thương”. Có tam ca Hòn Vọng Phu I do Phạm Duy – Mai Khanh – Thương Huyền trình bàỵ Có những bài hát hài hước “Con vỏi con voi, cái vòi đi trước”, “Con mèo mày trèo cây cau” của Nguyễn Xuân Khoát do giọng ca trầm ấm và dí dỏm của Phạm Đình Viêm diễn tấu. Có đơn ca của giọng hát đang được yêu chuộng nhất lúc bấi giờ: Phạm Duỵ Ca sĩ đêm nay hát bài của anh vừa sáng tác xong: Chiến Sĩ Vô Danh. Anh đã cúi đầu chào khán giả vừa định rời sàn diễn thì một tiếng hô, không biết của ai, vang lên “Trương Chi mới, Trương Chi mới”, cùng tiếng vỗ tay từng chập nổi lên. Hồi đầu thập niên 40, Văn Cao đã sáng tác một bài Trương Chi. Bài hát chưa được phổ biến rộng rãi, mới được lưu hành hạn hẹp trong một số ngươi thân quen với tác giả. Nhưng giờ đây, sau Cách mạng tháng 8/1945, Văn Cao sáng tác một bài Trương Chi khác, được coi là một thành tựu mới. Bài Trương Chi này chưa được chính thức phát hành; nó là bài hát đang được kiếm tìm, đang được ưa chuộng của người thưởng ngoạn. Cùng một lúc với những bài hát cách mạng như Tiến Quân Ca, Bao Chiến Sĩ Anh Hùng, Bắc Sơn, Không Quân Việt Nam, Hải Quân Việt Nam… Người ta còn tìm thấy nơi Văn Cao một nguồn suối những bản tình ca thần thoại: Bến Xuân, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, … Người ta bàng hoàng ngơ ngẩn, choáng ngợp trước tâm hồn giàu có và đa dạng của tác giả.
Phạm Duy, người ca sĩ thời danh, đã ôm guitare bước ra trước sân khấụ Mắt kính trắng loáng trước ánh đèn “Măng xông”. Anh nghiêng đầu, tay vuốt nhẹ một arpège dẫn vào khúc dạo của Trương Chi. Cả thính phòng im phắc. Chỉ nghe một tiếng hát, không phải từ cuộc đời này mà từ một tiền kiếp xa xôi nào vọng lại:
“Một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ,
Trầm trầm không gian mới rung thành tơ … “
Văn Cao: Bến Xuân
Đối với anh em văn nghệ, buổi trình diễn đầu năm 1947 ở Việt Trì chỉ là “công tác”. Cuộc gặp gỡ sau khi trình diễn mới là đáng kể. Chiến tranh toàn quốc mới nổ ra mấy tháng, nhưng súng đạn làm cho những cuộc gặp gỡ bất ngờ trên đường kháng chiến thêm đậm đà ý nghĩa. Chỉ mấy tháng thôi nhưng Hà Nội – Hải Phòng đã thấy xa vời vợi. Vùng ánh sáng mờ mờ kia đó là Hà Nội, nhưng đâu còn về được.
Thương nhớ ờ hờ thương nhớ ai
Sông xa từng lớp lớp mưa dài
(Thơ Quang Dũng)
Trong cơn mưa đêm lấm tấm của một mùa xuân muộn, mấy người bạn văn nghệ tìm đến nhaụ Nhạc sĩ “thổ công” Lưu Bách Thụ và cũng là “khổ chủ” đưa mấy gười bạn thân đi khoản đãi riêng. Trong một căn phòng nhỏ còn lại của một nhà khác địa phương đang phá dở, mọi người tụ tập, uống rượu mía đặc biệt Quảng Oai, ăn cháo gà. Căn phòng nhỏ lù mù dưới ánh đèn dầu hỏa chỉ có dăm bảy người chen chúc. Có Văn Cao, Phạm Duy, Thương Huyền, Hoàng Oanh. Khổ chủ Lưu Bách Thụ và ông anh tôi Trần Ngọc D.. Tôi may quá được “ăn theo”. Trong số các khuôn mặt hiện diện, theo lời ông anh tôi cho biết, đáng lưu ý nhất là một người đẹp “huyền thoại” của Hải Phòng. Ở đây có 2 người Hải Phòng: Văn Cao và Hoàng Oanh. Đầu thập niên 40, Hoàng Oanh đã là nguồn cảm hứng để Văn Cao sáng tác khúc tình ca bất hủ Bến Xuân.
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần…
Đó là Hoàng Oanh đến thăm Văn Cao trên bến đò Rừng. Có lẽ người đẹp chỉ đến một lần, rồi không đến nữa, nên trong lời ca thứ hai của bài Bến Xuân, Văn Cao kể lể:
Chiều nay tôi vẫn còn ngơ ngác
Em đến tôi một chiều
Bến nước tiêu điều còn hằn in nét dáng yêu…
Nàng không đến nữa, tất cả chỉ còn là kỷ niệm: “Không có em, cõi nhân gian này hoang vắng” (Un seul être vous manque, tout est dépeuplé) (Thơ Lamartine).
Vì vậy nên Văn Cao sáng tác Bến Xuân như một hoài niệm xót xa và đẹp đẽ nói về một cuộc tình vừa mới nhen lên đã tắt.
Được biết người đẹp Hoàng Oanh sau đó đã lên xe hoa, về làm vợ một nhạc sĩ rất tiếng tăm thời ấy cũng ở Hải Phòng, bỏ lại Văn Cao, bỏ lại căn nhà “bên chiếc cầu soi nước“. Nhưng hồng nhan đa truân, người đẹp Hoàng Oanh vui duyên mới đâu được vài năm, người chồng nhạc sĩ tài danh vắn số kia tạ thế. Hoàng Oanh trở thành một góa phụ đa cảm đa sầụ Chiến tranh toàn quốc, người thiếu phụ đi theo ban ca kịch, đi kháng chiến để phần nào nguôi quên sầu muộn. Theo con mắt tôi (ký giả Lô Răng), một gã thanh niên vừa lớn, thì Hoàng Oanh vẫn đẹp não nùng. Không phải là cái đẹp mơn mởn của tuổi dậy thì, mà là cái đẹp tròn đầy của một trái cây vừa chín tớị
Bữa ăn đêm ấm bụng thêm vào chất rượu đặc sản Quảng Oai, Sơn Tây, rượu mía ngọt lừ mà say lúc nào không biết. “Thổ công” Lưu Bách Thụ tay cầm ly rượu ngất ngưởng đứng lên “Đêm nay, không ngờ lại gặp được Văn Cao và Hoàng Oanh ở đây, 2 người con yêu của Hải Phòng mà cũng là 2 nhân vật chính trong bản tình ca Bến Xuân bất hủ. Để mở đầu cuộc họp mặt văn nghệ thân hữu đêm nay, yêu cầu anh Phạm Duy hát lại Bến Xuân… “. Tiếng vỗ tay hưởng ứng vang lên trong căn phòng nhỏ. Trong khi Phạm Duy đi tìm cây đàn guitare tròng vào vai, Văn Cao cảm khái ngâm 2 câu thơ dẫn nhập:
Chiều nay run rẩy tha đôi cánh
Môt cánh chim xưa đến lạc loài.
Lời thơ chìm vào âm điệu trầm buồn dìu dặt của cung Ré thứ. Phạm Duy bắt đầu hát:
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần
Bao cánh chim rừng, rập rờn trên khắp bến Xuân…
…
Dìu vai theo dốc suối mơ ven đồi
Còn thấy chim ghen lời âu yếm
Tới đây sao thấy lòng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền trên nước
Tà áo bay tung nghe thoáng nhẹ thẹn thùng – ngoài bến Xuân…
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Về đâu buồn mây còn trên lớp sóng Xuân
Ai tha hương nghe réo rắt oanh ca
Cánh nhạn vào mây thướt tha
Lưu luyến tình vừa qua…
Từ khi nghe bài Bến Xuân đến nay đã gần 50 năm trôi qua. Ngày ấy tôi là một thanh niên vừa mới lớn, mà bây giờ, vài năm nữa, tôi đã là một anh già già “thất thập”… Nửa thế kỷ… thời gian đâu có ngắn, nhưng mỗi khi nhớ lại bài Bến Xuân, tôi lại thấy suốt châu thân rờn rợn. Phạm Duy không phải là một giọng ca vàng, nhưng Phạm Duy hơn người ở chỗ anh biết nắm lấy cái “thần” của từng bài hát. Bài hát ấy đã thấm vào tâm hồn ngây dại của tôi lúc ấy, và ở lại đó nguyên. Ở trên đời này, có biết bao nhiêu mối tình nào dở dang, trữ tình, dìu dặt, xót xa như Bến Xuân năm ấy. Có thể khung cảnh đặc biệt trong một đêm Xuân ở Việt Trì đã ghi khắc vào tâm hồn non dại của tôi những dấu vết không phai. Hai người tình xưa gặp lại nhau trong một đêm xuân mưa bụi. Gặp nhau đây, bao nhiêu kỷ niệm xưa bừng dậy nhưng ngày mai… không hứa hẹn gì. Chiến tranh, đổ nát, chia ly. Kỷ niệm xưa càng đẹp, chia tay bây giờ lại càng đau xót. Bất giác tôi nhớ lại câu thơ của J. Prévert:
Tôi yêu em và em yêu tôi,
Nhưng những kẻ yêu nhau thường bị cuộc dời chia rẽ
(Moi qui t”aimais. Toi qui m”aimait.
Mais, la vie sépare ceux qui s”aimaient)
Văn Cao: Giấc mơ thê thảm
Theo tôi nghĩ, một bài hát mà mình yêu thích thường đánh dấu một quãng thời gian, không gian nào đó, khắc ghi một kỷ niệm đáng nhớ trong đời. Bài hát ấy, không gian ấy, ca sĩ ấỵ.. tất cả tạo thành một dấu ấn (imprint) không quên. Đối với tôi, bài Bến Xuân là một vùng kỷ niệm của ngày đầu đi kháng chiến chống Pháp, có “giăng giăng mưa bụi qua phòng tuyến“, có đôi người tình cũ Văn Cao – Hoàng Oanh gặp nhau rồi xa nhau, có bến giang đầu Ngã ba Hạc, Việt Trì thê thiết, có giọng hát thấm vào lòng người của Phạm Duy. Nó cũng đánh dấu thời kỳ đầu kháng chiến của bao nhiêu lứa thanh niên kẻ trước người sau, nô nức đi vào ngày hội lớn.
Vào khoảng giữa năm 1947, ông anh tôi Trần Ngọc D. không “công tác” ở vùng Sơn Tây nữa, lúc bấy giờ thuộc Khu 2, mà đi lên Khu 10 tận Việt Bắc – Lào Kay hay mở một cái “quán biên thùy” ở miền biên giới Hoa – Việt. Tôi cũng không biết việc đó là buôn bán tư nhân hay là công tác nữa. Ông anh tôi lúc nào cũng giữ đúng qui luật, “bem” (bí mật) tuyệt đốị Chỉ biết là một bộ phận nhạc trong đoàn ca kịch Giải Phóng tách ra lên Lào Kay, trong đó có Phạm Duy ở quán Biên Thùỵ Ít tháng sau, trong những lượt về hăm quê, ông anh tôi có mang theo những sáng tác mới của Phạm Duy như Bên Cầu Biên Giới, Thu Chiến Trường, Nợ Xương Máu, v. v… Tôi bắt đầu nghĩ đến từ sensibilité (sự mẫn cảm) mà Văn Cao hôm nào trong quán nhỏ bên sông đã đặc biệt nói về Phạm Duy. Đây cũng là một khúc rẽ để Phạm Duy từ một ca sĩ chuyển sang phần đất chính của anh: sáng tác.
Bữa ở Việt Trì, tôi từ biệt đoàn ca kịch Giải Phóng trở về Quốc Oai, Phạm Duy có chép tặng tôi bài Bến Xuân của Văn Cao có ký tên Phạm Duy mà tôi còn nhớ mãi nét phẩy cuối cùng của chữ Y trong chữ ký được Phạm Duy xoáy vòng trong vòng ngoài như một con ốc vặn. Sự lập dị của nghệ sĩ, sự “chơi trội” của một tài danh, không biết nữa, nhưng bản thân tôi giữ bài Bến Xuân này rất kỹ. Theo tôi được hiểu, tình hình chiến sự không cho phép tổ chức một đoàn ca kịch lớn lao và cồng kềnh như đoàn ca kịch giải phóng. Chiến tranh du kích thì văn nghệ cũng phải du kích. Phải chia từng nhóm nhỏ, bám trận địa, bám nhân dân mà trình diễn. Chiếc thuyền buồm lớn chở đoàn ca kịch chỉ trình diễn thêm một điểm nữa ở Vân Đình là giải thể. Cho nên bữa chia tay ở Việt Trì hôm ấy không khí đã bâng khuâng. Thuyền đã nhổ neo rồị Đoàn đã đị Phạm Duy, ông anh tôi Trần Ngọc D. cũng đi theo đoàn kịch. Trên bến Việt Trì, chỉ còn tôi ngồi lại với Văn Caọ Văn Cao nắm tay tôi khá chặt, không lặng lờ “cảnh vẻ” như lần trước. “Mình còn gặp nhau nữa chứ. À bientôt”, anh nói vậy trước khi chia tay. Tôi đạp xe đi được một đoạn, quay lại nhìn thấy Văn Cao, cái mũ béret basque kéo sụp xuống, măt đang đứng sững một mình trước bến Việt Trì chập chùng sông nước.
Anh hẹn “sớm gặp lại nhau” (à bientôt) nhưng trong chiến tranh, mấy ai giữ được lời ước hẹn. Sớm gặp lại nhau. Sớm là bao nhiêu lâu? một vài tuần, một vài tháng, một vài năm? Ở đây là 48 năm, tôi mới được gặp lại anh. Mà không phải gặp Văn Cao bằng xương bằng thịt, mà chỉ gặp một hình bóng Văn Cao thấp thoáng trên băng nhựạ Văn Cao thật sự đã nằm yên trong lòng đất. Con chim thornbird Việt Nam đã cạn khô giòng máu, tắt hơi rồi.
Mỗi khi xem cuốn băng Văn Cao, giấc mơ một đời người, tôi lại chìm trong kỷ niệm. Đặc biệt là bài hát Bến Xuân. “Tôi yêu thầm người con gái mà không dám nói ra. Nhưng người con gái ấy hiểu lòng tôi và đến với tôi. Nên mới có câu “Em đến tôi một lần””. Tác giả Văn Cao đã dẫn nhập như vậy trước khi đi vào bài hát, nhưng khi ca sĩ trình bày, nó không phải là Bến Xuân mà là bài Đàn Chim Việt. Bài Bến Xuân đã từng thấm vào tâm hồn tôi từ 50 năm về trước; đó là một bản tình ca diễm tuyệt, làm gì có “hoàng hôn Thái Nguyên tung hoành” với “trời Bắc Sơn kia thời tung cánh“. 2 người tình đi với nhau dưới nắng xuân đầm ấm, thì giờ đâu mà nhớ đến “mấy đồi Yên Thế“. Không có Đàn Chim Việt nào bay từ Bắc sang Trung. Bản tình ca dìu dặt Bến Xuân thời kỳ Cách mạng 1946 đã được cải trang thành Đàn Chim Việt. Không biết sự cải trang này là do chính tác giả Văn Cao hay do nhà xuất bản muốn phục vụ đúng lúc, đồng thời tung ra một món hàng ăn khách. Chưa biết được.
Phục vụ một giai đoạn Cách mạng hoặc là làm vừa lòng một phong trào thời thượng, mượn giai điệu Bến Xuân trở thành Đàn Chim Việt, tạm cho là được đi . Nhưng 50 năm sau, thực hiện một cuốn băng video ghi dấu một chặng đường sáng tác của một tác giả lớn, có giá trị như một lễ vật viếng người còn sống thì không thể “nhập nhằng” như thế được. Phải trả cho Caesar cái gì của Caesar, phải trả lại Bến Xuân cho cuộc tình say đắm và dìu dặt của Văn Cao . Tình ca là tình ca, bài ca Cách mạng là bài ca Cách mạng, không nên “nửa dơi nửa chuột” như thế. Nó vừa thất lễ với tác giả Văn Cao, mà làng âm nhạc Việt Nam cũng thiếu vắng đi một bản tình ca đặc sắc.
Không biết tôi có quá yêu bài hát Bến Xuân, quá yêu kỷ niệm của tôi hay không? Nhưng bữa nào gặp lại Phạm Duy (tôi hy vọng là gặp lại sớm), tôi sẽ xin anh hát lại Bến Xuân; chắc chắn, dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua, Phạm Duy vẫn sẽ hát “Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước. Em đến tôi một lần“.
“Văn Cao: Giấc mơ một đời người”
Tôi xem đi xem lại mấy lần mà lần nào cũng buồn hiu hắt. Nửa thế kỷ nay không gặp lại Văn Cao … từ một thanh niên kiêu mạn, tự tin ngày nào, anh đã trở thành một ông già đầu râu tóc bạc, lụm cụm chống gậy di tìm dĩ vãng. Cái đổi thay thể chất không nói làm gì. “Được là bao cái thân người, mà cay đắng, trải mọi mùi thế gian”, nhưng cái khiến tôi âm thầm ái ngại là cái tự tin, kiêu mạng ngày nào nơi anh đã mất. Tụi tui một nhóm người thua trận ở xứ tạm dung này, cứ mỗi khi thời tiết đổi thay lại là ngóng về quê hương mà thở dài; anh ở quê nhà, lại là tác giả bài “quốc ca” mà cũng buồn bã, cô đơn như vậy hay sao ? Anh nói nào là “Tôi luôn luôn thất bại… trong tình yêu“, “Tôi muốn tìm lại trong giấc mơ những gì tôi đã mất trong những ngày trẻ tuổi“, “Không nên sống với những gì mơ mộng, cuộc đời không dạt được“, v. v… Anh là Lưu, Nguyễn từ Thiên Thai trở về trần thế. Người cũ đã xa, suối mơ đã cạn, “ngồi đây ta gõ ván thuyền, ta ca trái đất còn riêng ta” (Trương Chi).
Nhìn anh tôi lại nhớ đến ông anh tôi, Trần Ngọc D. bạn anh ngày nào. Ông anh tôi, đi theo “Cách mạng” suốt cả một đời người mà kết thúc cuộc đời cũng âm thầm tức tưởi. Chết rồi, chết ở Paris. Tự tử bắn một phát súng vào đầu. Ông anh tôi “bem” suốt đời nên bà chị tôi cũng không hiểu vì sao mà ông anh tôi lại liều mình như vậỵ Tôi đi tù cải tạo về năm 1985, nhận được thư bà chị tôi từ Hà Nội báo tin như thế. Đây cũng là một giấc mơ thê thảm của một đời người.
Kí Giả Lô Răng
1995