Quỳnh Giao
28.7.2008
Cuối tuần qua, nhân dịp xuống San Diego ăn cưới, người viết được gặp lại một chị bạn sau hơn bốn chục năm gián đoạn. Vui mừng khôn xiết vì ráp lại một khúc phim bị đứt đã quá lâu và nhớ về những kỷ niệm ấu thơ ngày trước, trong trường nhạc.
Người bạn đã du học bên Pháp cùng lúc với ông anh người viết đi du học bên Ðức, và hầu như cũng vào thời điểm mà con bé Ðoan-Trang-cháu-bà-Phiệt trong trường nhạc thay mẹ bước vào nghệ thuật ca hát với một nghệ danh khác. Trong đám cưới long trọng tại San Diego, câu chuyện nổ như pháo ran ngày Tết. Kỷ niệm năm xưa dào dạt trở về. Thầy xưa nay ở đâu, bạn cũ còn những ai và còn ai tiếp tục sinh sống với nhạc?…
Trên đường về, bỗng nhớ tới danh cầm Alfred Cortot người Pháp.
Ông sinh năm 1877 và mất khi tụi con nít học nhạc này bắt đầu mỗi người mỗi ngả vào năm 1962. Học trò dương cầm trong trường thì không quên được Cortot, một danh thủ với tác phẩm của Liszt, mà Liszt cũng là diệu thủ dương cầm của mọi thời đại. Học trò trường nhạc thời ấy mà có được một đĩa nhạc của Cortot thì không khác gì môn sinh Võ Ðang cầm được Cửu Dương Chân Kinh! Quý như vàng, nghe đi nghe lại, để xem tài nghệ của một bậc sư có thể lên tới đâu… Cortot thuộc loại “thầy của thầy mình”.
Franz Liszt cũng vậy.
Ông là nhà soạn nhạc trứ danh, có lẽ còn hay hơn Chopin, và đương thời thì nổi tiếng hơn Chopin về tài đánh đàn. Liszt cũng là người đầu tiên đơn tấu dương cầm (recital, khác với hòa tấu concert). Lần đầu tiên là vào năm 1839.
Vào đầu thế kỷ 21 lại nói chuyện đánh đàn từ giữa thế kỷ 19! “Mây năm xưa bỗng phiêu du trở về” mà!…
Không chỉ người Việt ta mới lo ngại khi thấy nhạc cổ điển Tây Phương có thể đang thoái trào. Hoa Kỳ cũng thế. Người Mỹ thời nay đang buồn là các buổi hòa nhạc cổ điển cứ thưa thớt dần, thành phần đi nghe hiếm ai thuộc giới trẻ dưới năm mươi, và mạnh thường quân có thể bảo trợ sinh hoạt này hình như cũng ngày một ít hơn. Làm sao cạnh tranh nổi với các buổi trình diễn nhạc phổ thông, nhạc rock?
Nhiều người có tinh thần rất Mỹ là biến chiêu để gây hứng thú cho khán thính giả. Trước khi ngồi vào đàn, vì sao tay diệu thủ không có đôi lời tâm tình hàn huyên với cử tọa? Vì sao không đưa một số tác phẩm đương đại quen thuộc vào danh mục trình bày? Ba tay “tenor” khét tiếng là Luciano Pavarotti, Placindo Domingo và José Carreras mà còn phải hát trên sân khấu đại chúng. Cùng các bài arias trong opéra, họ còn trình bày những ca khúc thuộc loại “pop” để “bình dân hóa” loại nhạc cao nhã này, sao mình không học theo họ?
Cứ miên man nghĩ tới các cuộc thảo luận trong giới yêu nhạc cổ điển tại Hoa Kỳ, chúng ta tự hỏi là thời nào trong quá khứ có thể gọi là “thời hoàng kim” của loại nhạc này?
Ðấy là cảm nghĩ dẫn mình về Franz Liszt… Một nhà soạn nhạc lừng danh và diệu thủ dương cầm, người tình của những khuôn mặt đẹp và tài hoa nhất Âu Châu, như Caroline de Saint-Cricq, Marie d’Agoult hay George Sand, trước khi khoác áo tu của dòng Franciscan. Liszt cũng nhìn ra và nâng đỡ Richard Wagner trong thuở hàn vi, tổ chức trình tấu nhạc Wagner và bấm bụng chịu đựng việc con gái cưng là Cosima ly dị chồng, một môn sinh của mình, để lấy Wagner!
Lũ trẻ con học nhạc được biết vậy, chứ làm sao nghe ngón đàn của Listz!
Dù sao cũng được biết tiếng đàn của Liszt có trải qua nhiều thời kỳ. Khi còn xuất hiện trong các buổi hòa nhạc, Liszt là ông thầy đầy chuẩn mực trong cách trình tấu nhạc khúc của người khác, chính xác và chặt chẽ như một máy đếm. Nhưng khi bắt đầu mở ra kỷ nguyên đơn tấu, ngón đàn của ông tung hoành khỏi khuôn khổ của tác giả. Gần như Liszt sáng tác lại nhạc phẩm.
Thế nào là đúng là sai, thế nào là hay là dở? Có khán giả đã hỏi thẳng bậc danh cầm qua một câu hỏi nhuốm mùi công án Thiền Tông được viết trên giấy đưa lên sân khấu: “Lập gia đình và sống độc thân, cái nào hơn?” Câu trả lời của Liszt cũng đượm nét Lão Trang: “Chọn cách nào thì cũng sẽ có lúc ân hận!”.
Ði sát nguyên bản hoặc tự mình biến hóa với nghệ thuật “rubato” hay với tiết điệu khác, cách nào hay hơn? Câu hỏi không có giải đáp!
Phải nhiều thế hệ sau đấy, vài chục năm sau, khi khoa học đã tiến và nhân loại ghi âm được tiếng đàn của người xưa cho người sau, mình mới được nghe và thẩm định bằng chính đôi tai và cảm xúc của mình. Ðấy là thời kỳ gọi là “hoàng kim” của nghệ thuật trình tấu nhạc cổ điển, vào nửa đầu của thế kỷ 20. Ðấy là khi được nghe tiếng đàn Cortot trên đĩa nhựa loại 78.
Thời ấy, các danh thủ đã thừa kế kinh nghiệm của Liszt. Họ lấy nhạc khúc làm cảm hứng hơn là lời dạy, để ngón đàn của mình đan lượn thêm gấm thêm hoa. Danh thủ Vladimir Horowitz là bậc sư của nghệ thuật biến tấu đó. Nếu có dịp nghe lại Hungarian Rhapsody số 15 của Liszt qua ngón đàn Horowitz, mình hiểu thế nào là sáng tác trong trình tấu. Nhưng, phải là bậc sư như Horowitz hay Liszt mới có khả năng đó. Làm mới một tác phẩm mà không sát hại tác phẩm là điều không dễ!
Là đệ nhất diệu thủ của thế kỷ 20, Horowitz có lẽ hiểu điều ấy. Bay lượn trên đỉnh cao nhất của nhạc, ông vẫn coi việc luyện ngón đàn ở bậc vỡ lòng là cần thiết. Năm 1989, ông được an táng theo yêu cầu, là đem cuốn Hanon chôn chung với ông để cùng nhau qua bên kia thế giới! Ðây là cuốn luyện ngón đơn giản mà công hiệu. Các nhạc sinh ngày nay quá bận việc học và muốn thực hành tài nghệ với tác phẩm quen thuộc nên chỉ mong vượt qua sách Hanon. Horowitz thì khác.
Muốn lên tới cõi “vô chiêu” để tùy tâm diễn tả thì phải dày công khổ luyện đã!
Nhưng rồi thời hoàng kim đó cũng đã qua…
Người Mỹ than rằng các buổi trình tấu ngày nay có vẻ cứng ngắc, long trọng và đơn điệu, với bài bản thực ra không khác một buổi trình tấu hơn trăm năm trước của Liszt, hoặc nửa thế kỷ trước của Horowitz nên không thu hút được giới trẻ. Ðiều ấy có thể là đúng nếu mình đứng ở ngoài. Chứ nếu có được nghe danh cầm đích thực thì ta sẽ có cảm giác khác. Dù trình bày tác phẩm của người xưa, mỗi tay diệu thủ lại làm mới tác phẩm với cách luyến láy và ngắt câu khác hẳn.
Thà là như vậy đi, còn hơn là phải nghe nhạc cổ điển ngẫu hứng trình tấu cùng nhạc Beatles để có thêm khách.
Quỳnh Giao
Nguồn: nguoi-viet.com