Phạm Duy Lên Đường-chương 3

Cung Tích Biền
15.1.2024

Phạm Duy, tranh Thái Tuấn
Phạm Duy, tranh Thái Tuấn

Phạm Duy từng là một anh bộ đội.

Phạm Duy từng là một văn nghệ sĩ, một cán bộ văn hóa, phục vụ khắp các chiến trường những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, từ 1945 đến 1951.

Chỉ sau hai năm đầu toàn dân cùng một lòng chung nhau chống Pháp đã bắt đầu có sự phân rã, vì lý do ý thức hệ tư tưởng chính trị. Những thành phần Quốc Gia hiểu ra họ cần một môi trường chống Pháp không cùng hàng ngũ với Mặt Trận Việt Minh.

Từ 1947, đã có phong trào dinh tê [rentrer – trở về]. Người Quốc gia cùng nhau rời bỏ hàng ngũ kháng chiến để trở về thành phố, những vùng có quân Pháp chiếm đóng.

Năm 1948 đã hình thành Lực lượng Quốc Gia Việt Nam, có chính phủ và quân đội riêng, nằm trong khối Liên Hiệp Pháp. Vua Bảo Đại đứng vị trí Quốc Trưởng.

Điều đặc biệt Phạm Duy vẫn phục vụ trong hàng ngũ kháng chiến đến năm 1951 mới thực sự rời bỏ.

Bước chân Phạm Duy từng ở mặt trận Miền Nam, vùng Bà Rịa Vũng Tàu, ra tới miền Trung Du Bắc Bộ, tận núi rừng Việt Bắc.

***

Vì sao Phạm Duy đi kháng chiến? Vì bấy giờ toàn bộ dân chúng một lòng đứng lên, một lòng hoan hỉ, Phạm Duy đi theo Tiếng Gọi chung từ lòng dân yêu nước. Năm 1946, thực dân Pháp quay trở lại. Kháng chiến bùng nổ. Điều của lương tâm từ mỗi con người tự sai bảo, là “cùng nhau chống Pháp”.

Phạm Duy đã có mặt.

Không cái nhục nào lớn hơn nhục mất nước. Lại không cái khốn nạn, cái tủi nhục nào lớn hơn một toàn dân, mỗi con người mất mọi quyền tự do. Sống trong một đất nước, tựa là một trại tù lớn, một trại súc vật.

***

Tham khảo tiểu sử Phạm Duy, chúng ta biết:

Năm 1945, sau khi từ giã gánh hát Đức Huy, Phạm Duy gia nhập Thanh Niên Tiền Phong, làm công tác văn nghệ rồi vào đội Võ Trang Tuyên Truyền. Cuối năm này, ông về Hà Nội.

Đầu năm 1946 Phạm Duy tham gia một lớp huấn luyện quân sự cấp tốc rồi được đưa vào miền Nam tham gia kháng chiến. Tại chiến khu Bà Rịa – Vũng Tàu làm công tác thông tin, liên lạc và tiếp vận. Đầu mùa thu năm 1946 ông bị thương ở cánh tay và được phép về Bắc. Phạm Duy ở Huế một thời gian rồi về Hà Nội khoảng cuối tháng 10/1946.

Thời gian này, bài Về Miền Trung ra đời.

Ngày 20 tháng 12 ông ra Hà Đông, làm việc tại đài phát thanh bí mật; sau đó tham gia Đoàn Văn Nghệ Giải Phóng tại Sơn Tây rồi đi phục vụ văn nghệ qua Phúc Yên, Vĩnh Yên, Việt Trì, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai. Ở Lào Cai, cùng với Văn Cao, Ngọc Bích, làm việc tại phòng trà Quán Biên Thùy [một cơ sở tình báo]. Sau đó ông cùng Ngọc Bích đến Bắc Cạn [qua Yên Bái, Tuyên Quang, Thái Nguyên] khoảng tháng 10/1947. Ông làm việc cho Cục Chính Trị, là cán bộ văn nghệ với cấp bậc đại úy.

Cuối 1947 Phạm Duy từ Thái Nguyên qua Bắc Giang, tham gia đoàn văn nghệ do Hoàng Cầm thành lập, lưu diễn tại Bắc Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Năm 1948, không còn là văn nghệ sĩ của Cục Chính Trị, ông đi phục vụ văn nghệ tại nhiều nơi, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Sơn Tây, Hà Đông.

Phạm Duy vào Thanh Hóa, tham gia đoàn Văn Nghệ Quân Đội Liên Khu IV, trực thuộc Trung Đoàn 304. Tại Thanh Hóa năm 1949, Phạm Duy cưới Thái Hằng, người chủ trì hôn lễ là tướng Nguyễn Sơn.

Tới đây tôi xin mở một dấu ngoặc, về ca sĩ Thái Hằng. Bởi nếu kể thêm cây cành nghệ sĩ đầy đủ, nơi này là một đại gia đình, về âm nhạc, xướng ca, và nhiều ngành nghệ thuật khác.

Thân phụ của bà là một tay đàn tài tử nhạc cổ. Thân mẫu là một ca nương, biết sử dụng đàn tranh, tỳ bà. Thái Hằng [Phạm Thị Thái] có 2 người em, Phạm Đình Chương, nhạc sĩ [tức ca sĩ Hoài Bắc,] và Phạm Thị Băng Thanh [ca sĩ Thái Thanh].

Nếu kể cả 2 người con trai của người vợ trước, Thái Hằng có người anh là Phạm Đình Sĩ [bố của ca sĩ Mai Hương] và Phạm Đình Viêm [ca sĩ Hoài Trung),

Nếu thêm vào dâu, rể là Phạm Duy, Khánh Ngọc [diễn viên diện ảnh, vợ nhạc sĩ Phạm Đình Chương] và thế hệ con cháu Duy Quang, Ý Lan, Quỳnh Hương, Thái Thảo, Thái Hiền, Tuấn Ngọc… thì đại gia đình này có thể là “duy nhất và quý hiếm” trong lĩnh vực ca nhạc. Sáng tác lẫn trình diễn, thuộc hàng đầu trong cả nước.

Ca sĩ Thái Hằng biết sử dụng đàn Guitar Hawaienne [Hạ uy cầm]. Từng gia nhập đoàn kịch của Thế Lữ (bà Song Kim, vợ Thế Lữ là người cô của Thái Hằng].

Vào đầu năm 1949, Phạm Duy và mấy anh em Phạm Đình Viêm, Phạm Đình Chương, Thái Hằng, Băng Thanh (tức Thái Thanh) gia nhập các ban văn nghệ quân đội của Liên Khu IV.

Ca sĩ Thái Hằng là một phụ nữ đặc biệt, một hiền thê, một hình bóng chịu đựng, âm thầm cưu mang mọi nỗi đời, và – đương nhiên là một phần nào – để có một tài năng khốc liệt, kỳ vỹ, như Phạm Duy hằng có.

Phạm Duy lại ra Việt Bắc. Năm 1950, tham dự Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc. 1951. Chừng ông đã ngấm cái “Nỗi lòng một nghệ sĩ sống dưới sự chăm chút, chỉ đạo từ trên” nên đã rời khỏi hàng ngũ kháng chiến, vào sống hẳn tại Sài Gòn. Thuở ấy, Sài Gòn nằm trong vùng Quốc Gia, có mặt quân đội Pháp. Cuộc chiến Quốc-Cộng đã đến hồi cực điểm.

***

Đánh dấu bước ngoặt này, là bài “Bên Cầu Biên Giới” một bài ca nổi tiếng. Chính Phạm Duy đã xác nhận rằng, sau khi sáng tác bài này, ông rời bỏ hàng ngũ Kháng chiến, trở thành kẻ đối lập với Việt Minh:

Ngừng đây soi bóng bên giòng nước lũ
Cầu cao nghiêng dốc bên giòng sông sâu
Sầu vương theo sóng xuôi về cuối trời
Một vùng đau thương chốn làng cũ quê xưa

Người đi chưa hết hương sầu lữ thứ
Hồn theo cánh gió quên tình xa xưa
Tuổi xanh như lá thu rụng cuối mùa
Mộng về đêm đêm khát vừng trán ngây thơ

“Em đến bên tôi một chiều khi nắng phai rồi
Nắng (ư) ngừng bên chiếc cầu biên giới
Xa xa thoáng đàn trầm vô tư
Đâu đây dáng huyền đêm duyên mơ

Bên cầu biên giới
Tôi lặng nghe dòng đời từ từ trôi
Sông nước xa xôi
Mây núi khắp nơi
Không tỏ một đôi lời…

Ôi giấc mơ qua
Mộng đời phiêu lãng giang hồ
Sống trong lòng người đẹp Tô Châu
Hay là chết bên dòng sông Danube
Những đêm sáng sao

Nhưng đường quá xa vời
Hương trời vẫn mê mài
Lòng tôi sao vẫn còn biên giới!
Lòng tôi sao vẫn ngừng nơi đây

Ôi dòng tóc êm đềm!
Ôi bể mắt đắm chìm!
Đời phong sương cũ, chỉ là thương nhớ
Mộng bền năm xưa
Chỉ là mơ qua”!

Từ 1945 đến 1951, Phạm Duy đã có một lượng tác phẩm đồ sộ. Cuộc Kháng Chiến lửa nguồn, là tràng giang trôi chảy cảm hứng sáng tác nơi ông.

Không chỉ số lượng, Phạm Duy đã chinh phục lòng người qua dòng nhạc êm ả, giàu tâm sự, giàu hình ảnh sống thực, và trên hết là tình yêu quê hương, tình đồng bào. Ông mang lại sự bình thản, niềm vui sống ngay dưới ánh trời lửa đạn, từng ngày là chết chóc, đau thương, ngậm ngùi.

Thể tài đơn giản, bình thường trong những điều gần gũi. Những lối ngõ thường hằng, vụn nhỏ nhất trong sinh hoạt đời chung. Dưới ánh đèn dầu, mẹ ngồi khâu áo, cha đọc báo, phơi lúa dưới nắng vàng, người nông phu gánh lúa, mối tình nghèo, anh thương binh, bà mẹ chiến sĩ, cảnh chiều quê, anh lính tải thương, em bé chăn trâu, con đê, cánh diều…

Không có mặt những từ ngữ “bề thế, thời thượng”, những hữu thể, hư vô, hố thẳm, tha nhân, buồn nôn phi lý, những nan vấn triết học. Nhưng lời ca rất hàn lâm, gọn, đẹp. Ý tình tha thiết, êm đềm, trải rộng tình nhân gian. Đó là Phạm Duy.

Liệt kê một phần những sáng tác của Phạm Duy những năm đầu kháng chiến.

Nhớ Người Thương Binh, Dặn Dò, Nương Chiều, Ru Con, Mùa Đông Chiến Sĩ, Người Lính Bên Tê, Thu Chiến Trường, Chiến Sĩ Vô Danh, Nợ Xương Máu, Bà Mẹ Gio Linh, Nhớ Người Thương Binh, Đường Ra Biên Ải, Đoàn Quân Văn Hóa, Nhớ Người Ra Đi, Lập Chiến Công, Rèn Cán Chỉnh Quân, Thanh Niên Quyết Tiến, Bông Lau Rừng Xanh Pha Máu, Người Lính Bên Tê, Thiếu Sinh Quân, Quân Y Ca, Xuất Quân, Dân Quân Du Kích, Thu Chiến Trường, Ngày Trở Về, Tiếng Hát Sông Lô, Việt Bắc, Nhạc Tuổi Xanh, Đường Lạng Sơn, Đường Chiều, Cây Đàn Bỏ Quên, Khối Tình Trương Chi, Tình Kỹ Nữ, Tiếng Bước Trên Đường Khuya, Gánh Lúa, Quê Nghèo, Tình Nghèo, Về Miền Trung, Bên Cầu Biên Giới…

***

Trần Văn Khê, một tài năng âm nhạc, chỗ thân thích với Phạm Duy, ông viết:

“Trong hầu hết những bài hát của Phạm Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên thơ của những bài ca dao, những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có thêm tiếng đệm được phổ nhạc một cách tài tình.

Đối với tôi, Phạm Duy là một người nhạc sĩ toàn diện về mọi mặt (toàn diện theo nghĩa đầy đủ nhất của hai từ “nhạc sĩ”). Duy có những khả năng rất đặc biệt trong âm nhạc mà không phải bất kỳ người nhạc sĩ nào cũng có thể hội tụ đầy đủ, và sự cảm thụ âm nhạc nghệ thuật của Duy cũng mang tánh cách rất riêng, rất “Phạm Duy”, nhưng cái riêng đó không hề lạc ra khỏi cái gốc rễ tình cảm chung của người Việt Nam.

Duy đã làm những cuộc phiêu lưu “chiêu hồn nhạc” hết sức đậm đà, huyền diệu, đầy thơ mộng mà cũng đa dạng và phong phú vô cùng! Duy “chiêu” được “hồn” ông thần Nhạc và thành công trong nhiều thể loại, có lẽ bản thân ông thần Âm nhạc cũng “mê” lối “chiêu hồn” của Duy rồi chăng? Thành công – đối với Duy mà nói – không phải chỉ sớm nở tối tàn, mà phải nói rằng những nhạc phẩm đó đã và vẫn mang nhiều giá trị về ngôn ngữ âm nhạc lẫn ca từ, không lẫn với bất cứ ai, đặc biệt là những nhạc phẩm ấy sống mãi trong lòng người Việt say mê âm nhạc, nghệ thuật.

Có những thể loại nhạc đối với người nhạc sĩ này là sở trường, nhưng với người khác nó lại không phải là thế mạnh. Còn Duy có thể làm cho những thể loại âm nhạc khác nhau “chịu” đi theo mình, nghe lời mình uốn nắn và đưa vào tâm hồn tình cảm của Duy. Duy viết tình ca đi vào lòng người bao thế hệ, viết hành khúc sôi nổi một thời cũng làm cho thính giả khó quên, hay viết trường ca, tổ khúc… cũng làm lay động con tim âm nhạc của bao người. Những thể loại Duy làm ra đều được sự tán thưởng của giới mộ điệu âm nhạc, lấy được nhiều tình cảm từ công chúng. Điều đó không hề dễ có đối với một tác giả. Nó tồn tại cho tới bây giờ cũng đủ để thấy giá trị âm nhạc Phạm Duy mang một dấu ấn khó phai trong dòng chảy âm nhạc Việt, và hạnh phúc hiếm có nhất: vẫn vững chãi trước ba đào thời gian”. [Hết trích].

***

Sở dĩ Phạm Duy có một gia tài âm nhạc đồ sộ, mỗi tác phẩm được coi là mỗi danh tác, được ca ngợi hết tầm, là nhờ những tháng ngày ông trở lại với hàng ngũ Quốc Gia.

Không bị gò bó, không bị chỉ đạo tư tưởng, cánh chim tung trời, Phạm Duy, mới thể hiện được những gì đúng là Phạm Duy.

Nơi ông chinh phục nghìn người là thời ông cùng Ban Thăng Long trên đài Pháp Á, từ 1952 về sau. Tuy Quốc Gia có duyệt những sáng tác văn chương nghệ thuật, âm nhạc, nhưng không quá khắt khe, còn tôn trọng tối đa quyền sáng tác.

Lời nhạc của Phạm Duy vẫn được hát như lời ông sáng tác trong thời kháng chiến Việt Minh. Chỉ đôi bài bị chỉnh sửa gần như toàn bộ lời ca. Hầu hết các ca khúc còn lại của ông, phục vụ kháng chiến, chỉ chỉnh sửa một đôi từ mà thôi.

Chẳng hạn, bài Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây , đã chỉnh lại tựa đề là Quê Nghèo. Phạm Duy sống với Quốc Gia mà hô hào đánh giết bọn lính Pháp, chỉ có đi tù, hoặc ra Côn Đảo mà ngủ qua đêm mà thôi.
Và, lời hai ca khúc trên đã hoàn toàn khác đi, là đối nghịch nhau.

Lời ca khúc đầu tiên, từ vùng Kháng Chiến:

Chiều qua, tôi đi qua vùng chiếm đóng
Không bóng trâu cầy bên đồng
Vắng tiếng heo gà trên sân
Chiều qua gánh nước cho Vệ Quốc Quân
Nghe tiếng o nghèo kể rằng:
Quân thù về đây đốt làng

Lời mới trong vùng Quốc Gia, là:

Làng tôi không xa kinh kỳ sáng chói
Có những cánh đồng cát dài
Có lũy tre còm tả tơi
Ruộng khô có những ông già rách vai
Cuốc đất bên đàn trẻ gầy
Có người bừa thay trâu cầy

Cũng bài này, lời vùng Kháng Chiến:

Buổi mai, khi sương rơi mờ chinh giới,
thấp thoáng bóng người trên đồi,
vắng tiếng dân lành cười vui.
Giặc đi, bắt lính bắt người bắt phu
đắp lũy xây đồn nặng nề.
Ôi lòng người dân ê chề.

Ra là:

Bình minh khi sương rơi mờ trên rẫy
Thấp thoáng bóng người bên ngòi
Tát nước với giọt mồ hôi
Chiều rơi thoi thóp trên vài luống khoai
Hiu hắt tiếng bà mẹ cười
Vui vì nồi cơm ngô đầy…

Đoạn cuối cùng, lời từ vùng Kháng chiến:

Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
Để cho cô con gái không buồn vì chiến tranh
Bao giờ anh lấy được đồn Tây hỡi anh
Để cho cô con gái đươc gần người chiến binh

Ra là:

Bao giờ cho lúa được mùa luôn, lúa ơi
Để cho cô con gái không buồn vì gió Đông
Bao giờ cho lúa về đầy sân, hỡi em
Để cho anh trai tráng được gần người gái quê.

Quê nghèo còn Lời 2:

Làng tôi luôn luôn vươn vài đám khói
Những mái tranh buồn nhớ người
Xơ xác điêu tàn vì ai
Nửa đêm thanh vắng không một bóng trai
Có tiếng o nghèo thở dài
Vỗ về trẻ thơ bùi ngùi

Từ khi đau thương lan tràn sông núi
Quê cũ đã nghèo lắm rồi
Thêm đói thêm sầu mà thôi
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi
Mơ thấy bên lề cuộc đời
Áo dài đùa trong tiếng cười…

Bao giờ em trở lại vườn dâu, hỡi em
Để cho anh bắt gỗ, xây nhịp cầu (anh) bước sang
Bao giờ cho nối lại tình thương, hỡi ai
Để em ra bến vắng, đón người người chiến binh

Rõ ràng hai lời hát biểu tỏ hai thái độ trái cựa nhau. Nhưng có điều là cả hai vùng, đang nổ súng bắn giết nhau, Kháng Chiến và Quốc Gia, đều cùng hát bài này. Mỗi bên một lời. Miễn sao hợp khẩu vị của mình.

Một điều đặc biệt cũng nên nhắc lại. Từ 1952 nhạc Phạm Duy bị cấm tiệt trong vùng Kháng Chiến, vì ông đã rời bỏ hàng ngũ, nhưng chỗ riêng tư dân chúng vẫn hát rất nhiều ca khúc của Phạm Duy. Bài hát trên, người ta chỉ hát lời của Quê Nghèo. Bài Bao Giờ Anh Lấy Được Đồn Tây đã qua đời, ngay từ buổi ấy

Với Phạm Duy, không chỉ bài này. Rất nhiều ca khúc như Bà Mẹ Quê, Em bé Quê, Tiếng Đàn Tôi, Tình Nghèo, Lời Người Ra Đi, Tình Hoài Hương, Gánh Lúa, Nương Chiều… nhiều lắm, hai bên đều tha thiết yêu mê, cùng hát, không sửa đổi lời.

Thời Quốc Gia là một thời rực rỡ của Phạm Duy. Theo lời ông, có bài hát nổi tiếng, được quá nhiều người yêu thích, như bài Về Miền Trung. Mỗi lần tàu rời ga Sài Gòn để ra Trung, sân ga đã cho phát thanh vang động bài này. Chưa thấy cổng nhà, chưa thấy tới Đà Nẵng, Quy Nhơn, Tuy Hòa, lòng người Trung Việt đã bồi hồi, xao xuyến.

Về với Quốc Gia, ta có, một Phạm Duy khác. Một Phạm Duy được Tự do và Hạnh phúc trùng tu.

Cung Tích Biền

Nguồn: https://damau.org/98787/pham-duy-len-duong-chuong-3

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây