Review
Sinh năm 1932 (tuổi Nhâm Thân) tại vùng Non Côi Sông Vị (làng Nam Lạng, Trực Ninh, Bắc Việt). Tốt nghiệp khóa 4 phụ Đà Lạt năm 1954, đúng vào năm ký kết hiệp định đình chiến Geneva chia đôi đất nước. Do đó, Thục Vũ kẹt lại ở miền Nam VN, bỏ lại phía bên kia bờ Bến Hải người vợ chưa cưới mà khi anh còn học ở Chu Văn An, anh đã sáng tác bản nhạc đầu tiên có tên là "Duyên em" để tặng nàng. Nhưng may thay năm sau (1955) người yêu của thiếu úy Vũ Văn Sâm đã vào được nơi miền Nam tự do và lễ cưới được cử hành vào năm 1956.
Bước đầu của việc binh nghiệp, Thục Vũ được đưa ra phục vụ ở Đà Nẵng, và sau đó là Sư Đoàn 13 ở Tây Ninh và sau một thời gian tu nghiệp bên Hoa Kỳ về ngành Bộ Binh, anh được bổ nhiệm về Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung với chức vụ Trưởng phòng Tâm Lý Chiến ở Trung Tâm Huấn Luyện nàỵ Cũng tại đây, một bản hùng ca được Thục Vũ cho ra đời để tác động tinh thần anh em tân binh. Đó là bài "Quang Trung hành khúc" mà chúng ta thường nghe trong phần nhạc hiệu của chương trình phát thanh của Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung của đài phát thanh Quân Đội trước 1975.
Năm 1972, Thục Vũ đưọc đề cử làm Tam mưu phó của Sư đoàn 5 Bộ Binh ở Lai Khê (Bến Cát). Và đơn vị cuối cùng của nhạc sĩ Thục Vũ là Trường Sĩ quan Bộ binh Long Thành. Lúc đó cấp bậc của Thục Vũ là Trung Tá.
Sau 1975 anh được đưa ra Sơn La và bỏ mình nơi sương lam chướng khí này vào ngày 15/11/1976. Ngày nay, một tấm mộ bia đơn sơ với đôi hàng nguệch ngoạc "Vũ Văn Sâm, 1932", được anh em tù cải tạo ghi lại, ngoằn ngoèo nơi chốn rừng thiêng nước độc Sơn La.
Thục Vũ sáng tác không nhiều nhưng mỗi nhạc phẩm của anh là một tác phẩm, như bản "Trăng vàng dạ vũ" mà nhiều người rất thích. Vì là một quân nhân lại phục vụ trong ngành Tâm Lý Chiến cho nên phần đông những sáng tác của Thục Vũ là để phục vụ cho quân đội, cho chính ngành anh đang cộng tác. Ở đài phát thanh Saigon, anh có mặt trong ban Thi Văn Tao Đàn, chương trình Thi nhạc giao duyên và anh cũng là người thay thế thi sĩ Đinh Hùng để phụ trách chương trình Thi nhạc giao duyên trên đài Saigon khi Đinh Hùng mất.
Bắt đầu sự nghiệp ca nhạc từ lúc 13, 14 tuổi trong vùng hậu phương của thời toàn dân kháng chiến chống Pháp.
Ca sĩ Thái Thanh hát nhiều nhất là nhạc của Phạm Duy. Sau khi hồi cư về Hà Nội rồi di cư vào Sài Gòn (khoảng giữa năm 1950) cùng đại gia đình, cô bắt đầu nổi tiếng như cồn khắp Trung Nam Bắc qua những sáng tác của người nhạc sĩ này, cũng là chồng của bà chị Thái Hằng.
Nhạc sĩ Phạm Duy cùng Phạm Đình Chương lập ban hợp ca Thăng Long, và Thái Thanh liên tục trình diễn nhạc Phạm Duy từ 1950 cho tới năm 1975. Với giọng trong thanh, cao vút nhưng chuyên chở thật đầy đủ những rung cảm của người viết nhạc tài hoa, tiếng hát Thái Thanh đã đi vào tâm tư thính giả, khơi động những cảm xúc mãnh liệt trong tâm hồn người nghe nhạc.